Thiên đồng chủ về tay trắng làm nên, khi Thiên đồng hóa Lộc chủ về làm tăng tài lộc, mà còn thường có cơ duyên bất ngờ.
Nhưng
nếu có các sao khoa văn đồng cung, thì tổ hợp sao thành quá phong nhã,
dễ mê đắm trong "thanh vận thơ phú" hoặc âm nhạc, ưa hưởng thụ tinh thần
mà ít có ý chí tiến thủ. Tình hình này không mấy thích hợp với xã hội
canh tranh khốc liệt của thời hiện đại. Nếu có các sao đào hoa đồng độ, phần nhiều cảm thấy tinh thần trống rỗng, nên dễ chuốc lấy những rắc rối về tình cảm.
Thiên
đồng không sợ Sát tinh, nhiều lúc còn thành lực kích phát, cho nên có
cách "phản bối" và "Mã đầu đới kiếm". Dù không thành cách, nhưng có gặp
một hai Sát tinh cũng không ngại, phần nhiều chủ về trung niên vất vả,
đến vãn niên mới có thể hưởng thụ.
Sau khi hóa Lộc, Thiên đồng dễ chìm đắm trong dục lạc, nên ở vận hạn
mà hóa Lộc thì tốt hơn là hóa Lộc ở tinh bàn của nguyên cục. Bởi vì ở
đại hạn hoặc lưu niên, bản chất chìm đắm dục lạc sẽ không nặng (lúc này
cũng không cần có sát tinh kích phát).
Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" ở hai cung Tý hoặc Ngọ thủ mệnh, khi Thiên
đồng hóa Lộc, hội với "Thiên cơ Thiên lương" ở cung Quan (tại Thìn Tuất)
mà Thiên cơ hóa Quyền. Cung Tài mượn "Thái dương Cư môn" an cung (tại
Dần Thân). Ở xã hội hiên đại, nhóm tinh hệ có kết cấu dạng này, nữ mệnh
thì dễ phát, còn nam mệnh thì dễ được người khác giới xem trọng ưu ái,
nhưng lại không phải là tốt lành, do quá an nhàn, tình cảm phong phú,
rất có thể vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Nếu Văn xương hóa Khoa ở
cung Mệnh hay cung Phúc, hoặc có Sát tinh kích phát, thì mới chủ về
thành tựu. Nhóm sao này muốn phát lên, thường phải khởi nghiệp bằng các
nghề mang tính phục vụ (như luật sư, kiểm toán viên, .v.v...), hoặc viên
chức cao cấp trong Cty lớn hay nhà nước, được như vậy thì sẽ tiến triển
mà không phải tốn quá nhiều sức, nhưng phải hao tổn lời nói. Người có
Văn xương hóa Khoa hội hợp cung Mệnh, sẽ nhờ danh tiếng mang lại cơ hội.
Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" ở hai cung Sửu hoặc Mùi thủ mệnh, khi Thiên
đồng hóa Lộc, hoặc gặp Lộc tồn đồng cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (tại
Tị hoặc Hợi). Cung Tài mượn "Thái dương Thiên lương" an cung (ở Mão
hoặc Dậu). Gặp sao Lộc nặng chưa chắc là hợp với "Thiên đồng Cự môn",
chủ về ưa thích thanh nhàn. Nếu lại gặp đào hoa, hoặc "sao lẻ" phụ tá
(nhất là Văn xương hoặc Văn khúc), thì chủ về gặp rắc rối trong tình
cảm, thường dễ bị đau khổ vì tình. Nếu cung Mệnh có sao Lộc nhẹ, thì mới
chủ về tài lộc dồi dào, nhưng cuộc đời vẫn có một thời kỳ gian khổ.
Cung Quan là Thiên cơ "Lộc trùng điệp" thích hợp với công tác kế hoạch
tài vụ, tài chính, kinh tế, vạch kế sách, nhưng cũng phải hao phí nhiều
tâm lực trong công việc. Khuyết điểm của nhóm tinh hệ này là cung Tử tức
(??? kiểm) không tốt, chủ về dễ bị người do mình đề bạt đoạt quyền.
Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" ở hai cung Dần hoặc Thân thủ mệnh, khi
Thiên đồng hóa Lộc ắt sẽ bị Kình Đà chiếu xạ. Cung Quan là Thiên cơ hóa
Quyền (ở Tý hoặc Ngọ). Cung Tài là Thái âm độc tọa (ở Thìn hoặc Tuất),
có Kình Đà củng chiếu, hoặc Đà la đồng độ. Tinh hệ có kết cấu dạng này
ưa Kình dương mà ghét Đà la. Gặp Đà la hội chiếu sẽ dễ thành người thích
tán gẫu. lười biếng, uể oải, nếu gặp thêm các sao khoa văn và đào hoa,
thì chú trọng sự thú vị và tính cách điệu trong sinh hoạt tình cảm. Đối
với sự nghiệp và tiền tài sẽ vì vậy mà thờ ơ, tiêu cực. Nếu có Kình
dương kích phát, thì sự nghiệp có thể phát triển vững vàng, mà nguồn
tiền tài cũng nhờ đó mà thuận lợi toại ý. Có điều nếu cung Tài là Thái
âm đồng độ với Đà la thì kiếm được đồng tiền rất hao tổn sức lực, mà
nguồn tiền tài có lúc còn bị trở ngại, nhiều tranh chấp, bôn ba vất vả.
Nếu không có Đà la đồng độ, thì kiếm tiền chỉ hơi vất vả mà thôi. Bản
chất của "Thiên đồng Thiên lương" lợi về phục vụ, cũng chủ về danh
tiếng. Nếu có Văn xương hóa Khoa hội hợp, thì phải chú ý bồi dưỡng sự
vinh dự của bản thân.
Thiên đồng độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối cung
là Thái âm. Cung Tài là Cự môn, có Lộc tồn cùng hội hợp với cung mệnh (ở
Hợi hoặc Tị). Cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (ở Mùi hoặc Sửu). Kết cấu
tinh hệ này có Quyền Lộc hội hợp, cho nên sự nghiệp sáng sủa. Nhưng
Thiên đồng thủ Mệnh vẫn không nên gặp Lộc nặng (năm Ất Tân), sẽ chủ về
dưỡng thành tâm lý ỷ lại, nữ mệnh thì thích trang điểm, chải chuốt quá
đáng, nam mệnh thì thích an nhàn, như vậy dù cơ hội đến nhiều, thường
cũng dễ mất. Cung Tài là Cự môn có sao Lộc, đối chiếu với Thái dương,
chủ về được người ngoại quốc hay người ở phương xa đề bạt nâng đỡ, thích
hợp với nghề kinh doanh bán lẻ, nghề cần đến tài ăn nói, hoặc phải hao
tổn tâm lực. Cung Tử tức tuy Liêm trinh hóa Kị, nhưng đồng cung với
Thiên tướng, nếu thành cách "Tài Ấm giáp ấn", còn chủ về được người dưới
quyền trợ lực. Nếu không thành Cách, thường thường dễ bị gây phiền
phức.
Thiên đồng thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Đà la đồng độ,
hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Cung quan là "Thiên cơ Thái âm" mà Thiên cơ
hóa Quyền (ở Thân hoặc Dần), ắt sẽ bị Kình dương hoặc Đà la chiếu xạ.
Cung Tài là Thiên lương đồng độ với Kình dương (ở Tý hoặc Ngọ), hoặc bị
Kình dương Đà la chiếu xạ. Lúc Thiên Đồng ở cung Thìn đồng độ với Đà La,
thì dễ lãng phái thời gian một cách vô ích, tiền bạc cũng chật vật mới
kiếm được. Khi thiên Đồng ở cung Tuất, Đà La chiếu xạ gây "kích phát",
nhưng cung Tài là Thiên Lương đồng độ với Kình Dương; Thái Dương của đối
cung lại lạc hãm, lực hóa giải không đủ, nên khó kiếm được tiền mà còn
bị gây trở ngại; chủ về trung niên phát mạnh, lúc đầu rất khó khăn nhưng
về sau có thành tựu, nhưng cuộc đời dễ vì tiền bạc mà xảy ra kiện tụng,
hoặc bị ngầm tranh chấp, người dưới quyền cũng thiếu trợ lực. Tinh hệ
dạng này không nên quá thờ ơ đối với tiên bạc, mà cũng không nên xem
trọng thái quá, nếu không ắt sẽ gặp bất lợi.
Thiên Đồng thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đồng độ với Lộc tồn,
hoặc có Lộc tồn vây chiếu hay hội hợp, thành cách "Lộc trùng điệp",
thường chủ về nhờ thừa kế của cha mẹ mà có sản nghiệp. Cung Tài mượn
"Thái dương thái âm" nhập cung Sửu, gặp Lộc tồn, lợi hơn là mượn nhập
cung Mùi, khá thiếu tính ổn định. Cho nên Thiên đồng hóa Lộc ở cung Tị
thì tốt hơn ở cung Hợi. Nhưng Thiên đồng ở cung Tị thì "Lộc trùng điệp",
tuy có "phụ ấm", nhưng dễ biến thành người lần nữa, cẩu thả. Lúc sự
nghiệp có nguy cơ (thường do người dưới quyền xâm phạm). "Thiên cơ Cự
môn" của cung Quan mới sinh phấn chấn cải cách, Thiên cơ hóa Quyền cũng
mang ý nghĩa tổ nghiệp suy thoái, phải tự lập nghiệp, tất nhiên phải cần
hao tốn nhiều tâm lực, thì sự nghiệp mới được thành tựu. Nếu có Văn
xương hóa Khoa hội hợp sẽ làm tăng tính ổn định về sự nghiệp. Cung mệnh
gặp các sao đào hoa thì chủ về thất chí, nữ mệnh càng dễ cảm thấy trống
rỗng. Gặp "sao không" là danh sỹ nhàn đàm, nữ mệnh càng nhiều cảm giác
"trống vắng dưới trăng trước hoa".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét