Thái Dương chủ về phát tài, khi hóa Lộc cũng chẳng làm tăng danh vọng,
mà ngược lại, nhờ vào danh vọng thì mới có được tiền bạc, ví dụ như nhờ
nghe danh tiếng mà được mời làm việc.
Có lúc cũng chủ về được tài lộc không nhiều, chủ yếu thuộc về vinh dự. Ví dụ như được bằng khen, .v.v...
Do bản thân Thái Dương có tính chất "quý" mà không "phú", nên được tiếng
tăm nhiều hơn tiền tài. Lúc Thái dương lạc hãm mà hóa Lộc, có lúc còn
chủ về tán tài, ví dụ như được vinh dự nhận bằng khen, vì vậy mà tổ chức
tiệc mừng, mời bạn bè thân hữu đến chung vui, nên phải chi tiêu tốn kém
tương đối lớn. Xét ở góc độ tính toán tiền bạc, có thể nói "thu không
bằng chi".
Khi Thái dương miếu vượng mà hóa Lộc, cũng có thể quản lý được chút tài sản, nhờ vậy mà làm tăng địa vị của mệnh tạo.
Các nguyên tắc thuật ở trên, tóm lại là "Thái dương chủ về Quý mà không chủ về Phú".
Thái dương độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Quan
là Cự môn. Cung Tài mượn "Thiên cơ Thái âm" để hội hợp với cung Mệnh, có
Lộc tồn đồng độ. Đây là "phú cục", nhưng "phú" của nó là do sao Lộc
trùng điệp ở cung Tài, chứ không phải do Thái dương hóa thành sao Lộc ở
cung Mệnh, nhưng vẫn nhờ vào danh dự và địa vị của bản thân mệnh tạo mà
có. "Thiên cơ Thái âm" không đủ sức giữ tiền bạc, hội sao Lộc lại chủ về
có kiếm được tiền một cách thuận lợi, vì vậy dễ có cảm giác thỏa mãn,
nhưng cảm giác thỏa mãn của mệnh tạo cũng là vì "quý" (có danh tiếng)
chứ không phải vì "phú" (giầu có). Thái dương ở cung Ngọ tốt hơn ở cung
Tý, vì ở cung Ngọ thì Thái dương và Thái âm đều miếu vượng (??? kiểm),
còn ở cung Tý thì Thái dương và Thái âm đều lạc hãm (??? kiểm). Cho nên
Thái dương ở cung Tý đắc tài lộc hơi ít mà quá trình kiếm tiền cũng khá
hao tổn tinh thần. Nhưng Thái dương hóa Lộc ở cung Ngọ, ánh sáng chói
lọi quá thịnh, dễ bị người khác giới để ý làm tăng thêm rắc rối khó xử
về tình cảm, hơn nữa còn vì chi tiêu, gánh vác quá đáng mà dễ biến thành
trống rỗng.
Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái
dương hóa Lộc. Cung Quan là Thiên lương độc tọa. Cung Tài mượn "Thiên cơ
Cự môn" nhập cung, ắt sẽ có Kình dương đồng độ. Thái dương hóa Lộc
không bằng Thái âm hóa Lộc, chỉ chủ về "danh" lớn hơn "lợi". Cung Tài là
Cự Cơ có thêm Kình dương, kiếm tiền ắt sẽ hao tổn tâm lực, hoặc chủ về
phải nói năng vất vả. Thái dương hóa Lộc ở cung Mùi tốt hơn ở cung Sửu.
Thái dương hóa Lộc ở cung Mùi có thể giải được tính "cô độc và hình
khắc" của Thiên lương, khiến cho tình hình cạnh tranh trong sự nghiệp
khá thuận lợi, làm tăng thu nhập.
Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái
dương hóa Lộc, có Lộc tồn đồng độ hoặc đối nhau. Cung Quan là "Thiên
đồng Thái âm" mà Thiên đồng hóa Kị. Cung Tài mượn "Thiên cơ Thiên lương"
nhập cung. Do Thái dương hóa Lộc còn hội Lộc tồn, cho nên chủ về "danh"
trước rồi mới có "lợi" sau, danh khí càng lớn thì thu nhập cành nhiều.
Nhưng, toàn bộ các tinh hệ đều là kết cấu lao tâm, phải vất vả và phải
nói năng rất nhiều, mà kinh doanh làm ăn vẫn gặp nhiều tranh chấp. Cung
Quan là Đồng Âm mà Thiên đồng hóa Kị, chủ về vui vẻ mà lại không vui vẻ,
có phúc mà không hưởng được, điều này cũng tương ứng với các sao ở cung
Mệnh. Thái dương hóa Lộc ở cung Dần ưu hơn ở cung Thân, vì Thái dương ở
nơi vượng.
Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà
Thái dương hóa Lộc ắt sẽ gặp Kình dương, hoặc Kình dương Đà la hội
chiếu. Cung Tài là Thái âm độc tọa. Cung Quan mượn "Thiên đồng Cự môn"
nhập cung. Thái âm so với "Thái dương Thiên lương" cùng là hóa Lộc mà
khác nhau rất xa, chủ yếu là do Thái âm ở cung Tài, Thái âm lạc hãm thì
tài khó mà tụ, cho nên "Thái dương Thiên lương" ở cung Dậu không bằng ở
cung Mão. Nhưng toàn bộ các tinh hệ đều có sắc thái phục vụ, mà còn có
danh lớn, vì vậy rất nên dựa vào "phúc ấm" để nâng cao tên tuổi. Bao gồm
danh hiệu học vị, được nhiều người biết tiếng ở nơi làm việc, cho đến
việc được nhiều người có tiếng tăm nâng đỡ, nếu không sẽ dễ chuốc đố kị.
Nếu thành cách "Dương Lương Xương Khúc" thì rất thích hợp nghiên cứu
học thuật, cuộc đời sẽ có nguồn tiền tài vào không ngừng, như nước nhỏ
mà chảy dài.
Thái dương độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Cung Tài
là Cự môn, có thể hội Lộc tồn thành cách "Lộc trùng điệp". Cung Quan
mượn "Thiên đồng Thiên lương" nhập cung mà Thiên đồng hóa Kị, có Lộc tồn
đồng độ. Toàn bộ các tinh hệ của kết cấu này rất vượng tài lộc, nhưng
Thái Dương ở "thiên la địa võng", tuy đời người tiến triển ổn định,
nhưng vẫn khó tránh lao tâm, lao lực. Cự môn ở cung Tài có "sao Lộc
trùng điệp", tuy chủ về "phú" và được người ngoại quốc (hay người ở
phương xa) giúp đỡ hay ủng hộ, nhưng vẫn khó tránh phải lao tâm và rất
vất vả về nói năng. Điều này còn hợp với tính chất của Thiên đồng hóa Kị
ở cung Quan. So sánh hai cung vị, ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất, cung
Thìn thì Thái dương nhập miếu, danh lợi đều ưu.
Thái dương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi. Cung Tài là
Thiên lương. Cung Quan là Thái âm. Thái dương hóa Lộc ở cung Tị chủ về
hưởng thụ, Hóa Lộc ở cung Hợi thì lạc hãm, cuộc sống đơn sơ. Nói về danh
khí, ở cung Tị cũng hơn ở cung Hợi. Có điều Thái dương hóa Lộc thì bất
kể thế nào, cũng phải nhờ vào danh tiếng mà kiếm tiền. Thiên lương ở
cung Tài thì rất nên dựa vào phát minh sáng tạo mà thu lợi, hoặc nhờ
thương hiệu, tiếng tăm cũng có thể trở nên giầu có. Nếu không, nên làm
những công việc như kiểm toán, giám sát, bảo hiểm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét