Căn
cứ ghi chép trong sách cổ "Thái tuế có 3 loại, một là Thái tuế năm, vận
hành sang trái 28 vì tinh tú, 12 năm một chu thiên, bắt đầu thấy ở phía
Nam ngoài biển; tháng 1 là Thái tuế tháng, tháng 2 khởi từ ngày Mão,
tháng 3 khởi từ ngày Tý, tháng 4 khởi từ ngày Dậu, tháng 5 khởi từ
ngày Ngọ, tháng 6 lại quay về Mão".
Thái tuế trong sách Tử vi Đẩu Số là Thái tuế năm, cũng gọi là Thái tuế âm, Tinh long, Thiên nhất.
Thái
tuế mỗi năm chuyển động một cung, ví dụ như năm Dân quốc thứ 72 là năm
Quý Hợi, Thái tuế tại Hợi, sang năm sau Thái tuế tại Tý, sang năm sau
nữa Thái tuế tại Sửu.
Ba công dụng của Thái tuế là:
1)-
Căn cứ vào tính toán chuyển động của mặt Trăng, tuy năm nay Thái tuế
của mỗi người đều ở Hợi, nhưng lưu nguyệt của mỗi người lại không giống
nhau. Ví dụ như Phan Tử Ngư sinh vào tháng 2, lấy cung Hợi làm khởi
điểm, ngược chiều kim đồng hồ lấy Hợi địa làm tháng 1, Tuất địa làm
tháng 2 (sinh tháng 3 lại theo đó suy tiếp 1 cung, sinh tháng 4 suy tiếp
tương tự) tại cung Tuất làm khởi điểm, lại theo chiều kim đồng hồ đoán
ngược giờ sinh. Phan Tử Ngư sinh vào giờ Dần, lấy Tuất địa làm giờ Tý,
Hợi địa làm giờ Sửu, Tý địa làm giờ Dần. Như vậy Phan Tử Ngư năm nay Đẩu
quân tại Tý, cũng tức là lất Tý địa làm chính nguyệt,
Sửu địa làm tháng 2, Dần địa làm tháng 3 ... Sự biến hóa cát hung của
vận khí mỗi tháng đều xem dựa trên vị trí tọa của các Sao.
Vận khí mỗi ngày như thế nào, thì lấy Lưu nguyệt làm ngày mồng 1, mỗi ngày vận hành một cung
Lưu thời lấy Đẩu Nhật làm giờ Tý, tính toán như lưu Nhật.
2)- Thái tuế của mỗi ngươi đều ở Hợi địa, nhưng cung
nhập Hợi địa mỗi người không giống nhau, ví như có người Hợi địa ở cung
Phụ mẫu, có người ở cung Phu thê, có người ở cung Tử nữ, lại có người
cung Tài bạch nhập Hợi địa ... Như vậy, Thái tuế và cung Hợi có quan hệ
mật thiết, ví như cung Phu thê tọa Hợi địa thì luận về
tình cảm vợ chông trong năm Quý Hợi là trọng yếu. Nếu sao ở cung Phu thê
là cát tinh thì vợ chồng hòa thuận, nếu là hung tinh thì vợ chồng bất
hòa, hoặc gặp tai nạn, thậm chí là xung khắc nhau. Nếu nha Thái tuế năm
nay ở cung Tài bạch, gặp cát tinh tất phát tài, gặp hung tinh e khó
tránh họa phá tài.
3)- Xem vận khí mỗi năm, lấy Tiểu hạn làm chủ, Thái tuế làm phụ
trợ. Ví dụ Thái tuế năm nay ở Hợi địa, thì lấy Hợi địa làm cung Mệnh,
cung Phu thê ở Dậu, sao tọa Dậu địa là cát tinh thì vợ chồng hòa hợp,
sao tọa là hung tinh thì vợ chồng bất hòa.
Cung Tài bạch ở Mùi địa, sao tọa là cát tinh thì năm Quý Hợi tài vận tốt đẹp, là hung tinh thì e khó tránh họa phá tài.
Tuy nhiên, nên chú ý phần phê mệnh, lại tham khảo các phương tiện
Đại hạn, Tiểu hạn, Thái tuế, cùng Tứ hóa (bao gồm tứ Hóa năm sinh. Tứ
Hóa đại hạn. Tứ hóa tiểu hạn. Tứ hóa Thái tuế...) tổng hợp để nghiên
cứu.
Thái tuế rất kị gặp năm mệnh, nếu sao ở cung Mệnh là cát tinh thì
không đáng lo ngại, nếu là hung tinh thì năm đoa khó tránh họa tai nạn.
Thái tuế kị gặp Thiên thương - Thiên sứ (như Thiên thương tại Tị,
Thiên sứ tại Mùi, Thái tuế tại Ngọ), kị hành Địa không, Địa kiếp, Kình
dương, Đà la, cũng kị Kình Đà xung phá Thái tuế, thường gặp hung hạn.
Cách tính chính nguyệt này có trùng với cách tính vòng tràng sinh bay của Phúc tông để luận?
Trả lờiXóaTừ lưu Thái Tuế, lấy lục hình để an Trường Sinh, rồi an các sao khác. Lâm Quan là lộc vị. Tuyệt lưu là Bại địa.
Trả lờiXóaNhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóa