Luận Mệnh thông qua Đẩu Số quan niệm: "Bất kể sự tình nào cũng đều có 
thể căn cứ vào mệnh bàn mà dự đoán ra, dù mệnh tạo có quan hệ với người 
khác hay không".
      
   Bộ sách Hiện đại Tử Vi quan niệm: "Đối với những sự vật mà bản thân 
mình có thể quyết định được, Đẩu số mới có thể luận đoán. Nếu mệnh tạo 
không có quan hệ gì với người khác thì không có cách nào luận đoán, trừ 
phi ở trong mối quan hệ với họ".
      1- Cung Mệnh
   
      
   Trong Đẩu Số, dùng cung Mệnh để luận đoán mệnh cách của người đó là 
cao hay thấp, nó chủ về thực chất của vận thế. Nếu cung Mệnh trong tinh 
bàn hiển thị cách cục cao, thì khó gặp đại hạn và lưu niên quá xấu. Trái
 lại, nếu cung Mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục thấp, thì sẽ khó 
gặp đại hạn và lưu niên quá tốt, bất quá chỉ thuận lợi nhất thời mà 
thôi. Do đó có thể thấy sự quan trọng của cung Mệnh.
      
   Cung Mệnh đối nhau với cung Thiên Di ở tứ chính, và tương hội với 
cung Quan với cung Tài ở tam phương hội cung. Cũng chính là nói, chúng 
có thể ảnh hưởng đến thực chất của vận trình, những tao ngộ như xuất 
ngoại, và mối quan hệ với người ở nơi xa hay người ngoại quốc, và các 
yếu tố như sự nghiệp phát triển có thuận lợi toại ý hay không (quan), 
tài phú có được như ý hay không, .v.v...
      
   Do đó cung Mệnh trong tinh bàn Đẩu Số là then chốt chủ yếu để luận 
đoán. Xem xét tổ hợp các sao của cung Mệnh, hầu như đã có thể định được 
đại khái vận thế của một đời người.
      
   Còn cung Thân, theo thuyết thông thường, là dùng để luận đoán sự phát
 triển Hậu thiên của người đó. Nếu cung Mệnh cát mà cung Thân cũng cát, 
đương nhiên cuộc đời nhiều thuận lợi toại ý. Nếu cung Mệnh cát nhưng 
cung Thân không cát, thì giống như khối ngọc đẹp, nhưng lúc điêu khắc đã
 xảy ra sai sót, do đó làm giảm đẹp. Nếu cung Mệnh không cát mà cung 
Thân cũng không cát, thì cũng giống như gỗ xấu không được điêu khắc, đời
 người đương nhiên giảm sắc, chỉ có thể khéo vận dụng đại hạn và lưu 
niên (nhân mệnh), lấy nỗ lực hậu thiên để bổ cứu.
      2- Cung Huynh đệ
      
   Trong xã hội hiện đại, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán cung Huynh đệ, 
thực ra có khuyết điểm rất lớn. Ở xã hội cổ đại, anh em không tách ra ở 
riêng, nên Đẩu Số có thể dựa vào các sao ở cung Huynh đệ để luận đoán 
khái quát toàn bộ mệnh vận của gia tộc. Vì vậy ở tinh bàn, đối nhau với 
cung Huynh đệ là cung Nô bộc (nay đổi lại là cung Giao hữu), tương hội ở
 tam phương là cung Điền Trạch và cung Tật Ách.
      
   Từ số lượng anh em nhiều hay ít, cho đến Nô Bộc nhiều hay ít và có 
đắc lực hay không, thì Mệnh vận của một gia tộc có thể biết được những 
tính chất sơ lược. Lại quan sát các sao của cung Tật Ách để xem gia tộc 
có bệnh di truyền hay không, thì tình hình càng rõ như chỉ bàn tay. Thời
 cổ đại một người phạm tội thì cả gia tộc bị liên lụy, cho nên quan sát 
cung Tật Ách là rất quan trọng.
      
   Xã hội hiện đại đã không còn chế độ đại gia đình, anh chị em mỗi 
người đều có gia đình riêng. Hơn nữa không còn tình trạng bị liên lụy 
người phạm tội trong gia đình. Cho nên, quan sát cung không có gì quan 
trọng, cổ nhân đã đặt ra một số phép tắc, cũng có thể nói hoàn toàn 
không còn hợp thời.
      
   Theo Trung Châu phái, vẫn có thể vận dụng tổ hợp các sao của cung 
Huynh đệ, để luận đoán về người có cùng một xuất thân với mệnh tạo (theo
 cổ pháp, Huynh đệ cũng dùng để luận đoán về bạn "đồng môn" và bạn "đồng
 niên")
      
   Phàm cung Huynh đệ mà gặp Tả phụ, Hữu bật thì số anh chị em không chỉ
 dựa vào chính diệu để luận đoán là nhiều, như Tử Phủ cư Huynh chủ về 
anh chị em chỉ có 3 người, nhưng gặp Tả Hữu thì có trên 3 người, nhưng 
lại có khả năng là anh em khác mẹ, cần phải xem xét kỹ các sao của cung 
Phụ mẫu, xem có xuất hiện tình hình tái hôn, ngoại hôn hay không mà 
định.
      
   Có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Hóa Lộc, Hóa Khoa, 
Hóa Quyền, thì số lượng anh chị em có thể dựa vào chính diệu để luận 
đoán là nhiều. Nhưng phải có "sao đôi" hội hợp thì mới có hiệu lực, hoặc
 cũng chủ về nhiều bạn đồng môn và nhiều người có cùng xuất thân.
      
   Cung Huynh đệ không gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu, nhưng cung Mệnh 
gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu tụ tập thì cũng chủ về nhiều anh chị em.
      
   Phàm là Tử vi, Thiên phủ, Thiên tướng, Thiên đồng, Thiên lương thủ 
cung Huynh đệ, về nguyên tắc chủ về anh chị hoặc bạn đồng môn, hoặc đồng
 sự ngang cấp có sự hòa hợp. Nếu gặp các sao lông bông thủ cung Huynh đệ
 như Tham lang, Vũ khúc, Thất sát, Phá quân, Thiên cơ, về nguyên tắc chủ
 về anh chị em, hoặc bạn đồng môn, hoặc đồng sự ngang cấp không thể đồng
 tâm hiệp lực. Nếu gặp thêm Sát tinh thì thường có tranh chấp, còn gặp 
thêm các sao Hình - Kị thì chủ về xảy ra kiện tụng.
      
   Phàm cung Huynh đệ gặp các sao Hình - Kị, lại còn gặp thêm Thiên Vu 
thì chủ về tranh chấp tài sản, hoặc chủ về đồng sự tranh chấp quyền lợi.
 Thiên lương thủ cung Huynh đệ gặp Kình dương đồng độ chủ về kiện tụng 
liên miên. [ An Thiên Vu: tháng 1 - 5 - 9 cư Tị, tháng 2 - 6 - 10 cư 
Thân, tháng 3 - 7 - 11 cư Dần, tháng 4 - 8 - 12 cư Hợi ].
      
   Cung Huynh đệ không nên gặp Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, 
Địa không, Địa kiếp, vì chủ về anh em ở riêng nơi khác hoặc bất lợi, 
hoặc đồng sự hay đồng môn thì chủ về gặp nhiều đố kị tranh chấp. Sát 
tinh nặng mà gặp thêm Thiên Hình và Hóa Kị thì chủ về có hình thương.
      
   Cung Huynh đệ gặp "Lộc Quyền Khoa", chưa chắc chủ về anh chị em phú 
quý, có lúc chỉ chủ về có nhiều anh chị em. Nhưng trong số anh chị em ắt
 sẽ có người được cảnh ngộ khá hơn mệnh tạo; hoặc chủ về đồng sự có cung
 một xuất thân thăng tiến nhanh hơn mệnh tạo.
      
   Các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, tứ Hóa cùng bay đến cung Huynh 
đệ, chủ về cát hung lẫn lộn, cũng chủ về hòa hợp nhưng có "hình thương",
 hoặc chủ về hòa hợp mà không giúp đỡ lẫn nhau được, hoặc chủ về anh em 
nhiều nhưng hình khắc, ở riêng mà vẫn tranh chấp (luận về đồng sự, thì 
tuy có trợ lực nhưng chỉ là cái vỏ bên ngoài, còn bên trong lại có 
khuynh hướng kết bè kết đảng chống đối nhau). Cho nên khi luận đoán về 
tình hình giữa đồng sự với nhau, cần phải vận dụng một cách linh hoạt.
      3- Cung Phu Thê 
      
   Cung Phu Thê hội hợp "tam phương tứ chính" là cung Phúc Đức, cung Quan Lộc và cung Thiên Di. Cách phối trí này rất logic.
      
   Sự nghiệp của một người đương nhiên chịu ảnh hưởng của sinh hoạt hôn 
nhân, di cư (Thiên di) tha hương, nếu không phải là vợ chồng sinh ly tử 
biệt thì hoặc là vợ chồng đều nên sống ở tha hương, đây cũng là vấn đề 
trọng đại của đời người, còn cung Phúc đức chủ về sinh hoạt tinh thần 
của con người, mà quan hệ hôn nhân có ảnh hưởng đến sinh hoạt tinh thần,
 điều này không nói cũng biết.
      
   Cho nên việc quan sát và luận đoán cung Phu thê, cần phải xem xét kỹ 
các sao của cung Phúc đức, cung Quan lộc và cung Thiên di, các sao của 
ba cung này cũng chịu ảnh hưởng các sao của cung Phu thê, đây là hiện 
tượng rất hợp lý.
      
   Tiết này tuy dùng phương thức trình bày giản lược về các tinh hệ của 
hiện tượng hôn nhân, nhưng đã suy tính đến mối liên hệ của "tam phương 
tứ chính". Để tiện cho người nghiên cứu những ảnh hưởng của các sao Phụ 
diệu, Tá diệu, Sát tinh đối với tính chất các tinh hệ chính diệu, nên 
sau khi trình bầy tính chất của 14 tinh hệ chính diệu, vẫn có thêm một 
mục trình bầy tính chất của các sao Phụ Tá Sát ở cung Phu thê, để có thể
 dung hợp nó với tính chất của tinh hệ chính diệu, xem nó làm mạnh thêm 
hay yếu đi, hoặc tình hình chuyển hóa như thế nào.
      
   Ví dụ tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" chủ về trước hôn nhân có sóng gió, 
trắc trở, hơn nữa còn chủ về phiêu bạt, còn tính chất của Lộc tồn là vợ 
chồng ân ái, chỉ dễ bị người phối ngẫu bắt nạt, hà hiếp, vì vậy mà hai 
người chia ly. Nếu dung hòa hai tính chất này, thì tham khảo thêm ở đại 
hạn hoặc lưu niên để luận đoán xem phần nhiều xảy ra chuyện gì.
      
   Có điều khi luận đoán hôn nhân, không nên chỉ xem cung Phu thê, mà 
còn nên xem kiêm tinh hệ của cung Mệnh. Trong xã hội hiện đại, sinh hoạt
 hôn nhân giữa vợ và chồng, việc luận đoán không ngoài những hạng mục 
như tình cảm, tài năng, dung mạo, và tài phú. Thế sự lại rất khó toàn 
mỹ, tài năng và dung mạo cũng rất khó lưỡng toàn, nhưng cũng không phải 
là không có khả năng tài năng, dung mạo, tài phú đều có đủ, cho tới 
trường hợp khi các phương diện đều hợp với lý tưởng, thì tình cảm lại 
thường thường dễ xảy ra thay đổi. Cho nên đạo của vợ chồng, quý ở chỗ 
biết thích ứng. Tiết này chỉ ra những hiện tượng quan trọng, mà còn gợi ý
 biện pháp dùng nỗ lực hậu thiên để bổ cứu và thích ứng với cuộc sống 
hôn nhân.
      
   Dưới đây là một số thể lể thích hợp cho tính hình chung, dùng để luận đoán cung Phu thê.
      
   Luận đoán cung Phu thê xem có mỹ mãn hay không, ngoại trừ việc quan 
sát cung Phu thê ra, còn cần phải xem xét tinh hệ của cung Mệnh, sau đó 
dung hòa hai tính chất này.
      
   Mỗi một cung Phu thê của đại hạn đều phải chú ý xem xét, sau đó mới 
có thể nhìn ra sự thay đổi trong quan hệ hôn nhân và tình cảm vợ chồng. 
Nhưng thông thường không cần dùng thêm tinh hệ của cung Mệnh đại hạn để 
trợ giúp trong việc luận đoán, trừ khi xem tai nạn bệnh tật.
      
   Muôn luận định về hôn nhân, tốt nhất là mang tinh bàn của cả hai 
người nam và nữ ra quan sát một lượt, chỉ càn quan sát cặn kẽ, tỷ mỉ thì
 có thể nhìn ra một số tình tiết.
      
   Khi luận đoán cung Phu thê, phải lưu ý một nguyên tắc, nhiều Cát tinh
 chưa chắc có lợi, như Xương Khúc chủ về người phối ngẫu quan tâm, chăm 
sóc, nhưng lại đồng thời có thể có tình nhân bên ngoài. Các sao Hung, 
sao Ác cũng chưa chắc là không tốt, như Đà La chủ về phối ngẫu rời xa 
quê hương, nhưng nếu gặp Lộc tồn, nhưng nếu gặp Lộc tồn, Thiên mã, thì 
lại chủ về phát tài ở nơi xa, hơn nữa tình cảm vợ chồng có thể rất tốt. 
Cho nên cần phải cân nhắc tỷ mỉ cẩn thận.
      
   Luận đoán cung Phu thê của Đại hạn hoặc Lưu niên, ngoại trừ tham khảo
 tiết này, còn cần phải căn cứ vào bản chất của tinh hệ thủ cung Phu thê
 nguyên cục.
      4- Cung Tử tức 
      
   Trong mệnh bàn Đẩu Số, cung Tử tức và cung Điền trạch đối nhau, cung 
Tử tức tương hội với cung Phụ mẫu và cung Nô bộc. Kết cấu dạng này rõ 
ràng phản ảnh chế độ đại gia tộc thời xưa.
      
   Đại gia tộc trong xã hội phong kiến, con cái là do đầy tớ (nô bộc) 
phục dịch, do đó cung Nô bộc có ảnh hưởng nhất định đối với cung Tử tức.
 Đồng thời có thể nhìn ra quan hệ "kế thừa sự nghiệp của cha ông" từ tổ 
hợp các sao của cung Phụ mẫu và cung Tử tức, còn đối với cung Điền 
trạch, Đẩu Số dùng để quan sát gia trạch, đương nhiên càng có tương quan
 với cung Tử tức.
      
   Do đó nếu nói tổ hợp tinh hệ của cung Huynh đệ là phô bầy cả một đại 
gia tộc, dùng để quan sát thế hệ bề ngang của mệnh tạo, thì tổ hợp tinh 
hệ của cung Phụ mẫu và cung Tử tức là một biểu đồ theo chiều dọc, dùng 
để quan sát từ ông Tổ đến cha mẹ, rồi từ cha mẹ đến con cái, cả một dòng
 họ truyền từ đời trước sang đời sau.
      
   Ngày nay, chế độ đại gia tộc theo kiểu phong kiến đã sụp đổ, kết cấu 
tinh hệ ở cung Tử tức và tam phương tứ chính đương nhiên đã mất đi một 
số ý nghĩa ban đầu. Nhất là cung Nô bộc, ngoại trừ để xem mối quan hệ 
với nhân viên làm thuê và người trực tiếp dưới quyền, thì ngày nay còn 
dùng để quan sát bạn bè, đương nhiên sẽ cảm thấy quá cách xa cung Tử 
tức. Vì vậy trong thực tế ứng dụng, càng cần phải định ra một số nguyên 
tắc khác.
      
   Sự tương quan hợp lý thứ nhất giữa hai cung, đó là lấy sự quan sát 
"mối quan hệ gia tộc" như trước kia, cải biến thành quan sát "địa vị xã 
hội". Bởi vì từ các tình trạng tốt xấu của cha mẹ, hay nhân viên làm 
thuê và bạn bè, cho tới con cái của mệnh tạo, có thể luận đoán ra địa vị
 xã hội của đương số.
      
   Ví dụ như, nếu ba cung đều cát, thì mệnh tạo phải là người lúc còn 
nhỏ được cha mẹ nuôi dạy khá tốt, bản thân cũng được bạn bè giúp đỡ ủng 
hộ, đồng thời còn được nhân viên làm thuê trợ lực, đến trung niên thì 
phát triển sự nghiệp, đến vãn niên thì có con cái có thể kế thừa sự 
nghiệp của cha ông. Người này là mẫu người điển hình của loại "lúc nhỏ 
là thiếu gia, lúc già gọi là lão gia", có địa vị xã hội như thế nào chắc
 là không cần phải nói.
      
   Nếu cung Phụ mẫu và cung Nô bộc không cát tường, nhưng cung Tử tức 
thì có Cát tinh tụ tập, như vậy có thể luận đoán mệnh tạo rất có khả 
năng phải trải quan gian lao vất vả, rồi mới tay trắng tạo nên sự 
nghiệp, sau trung niên ít nhất cũng có địa vị vào hạng trung lưu.
      
   Dựa vào điểm suy đoán này, có thể trợ giúp chúng ta luận đoán ra vận 
trình của bản thân mệnh tạo. Ngược lại, từ vận trình của bản thân mệnh 
tạo, cũng có thể luận đoán ra con cái của mệnh tạo có thành tựu hay 
không !
      
   Ví dụ như, nếu cung Phụ mẫu là Cát, cung Mệnh cũng cát, cung Nô không
 xấu, nhưng cung Tử tức lại xấu, thế thì, có khả năng không có người 
thừa kế, cũng có thể là con cái bất tài, phẩm hạnh quá kém.
      
   Vì vậy có thể căn cứ vào tinh bàn để tìm ra một số chỉ dẫn. Ví dụ như
 quan sát sự hiển thị của cung Tử tức, để biết về tính cách con cái của 
mệnh tạo mà đưa ra một số lời khuyên
      
   Đây cũng chính là nói, từ "tam phương tứ chính" của cung Tử tức ngoại
 trừ xem có con nhiều hay ít, còn luận đoán về tình cảm của mệnh tạo đối
 với con cái, và tính cách chủ yếu của con cái. Liên quan về những luận 
đoán này, ta cần kết hợp với cung Tử tức của đại hạn và lưu niên để đánh
 giá về vận mệnh của con cái đương số, để biết con cái của đương số có 
thành tựu hay không?
      5- Cung Tài bạch 
      
    Tiền bạc (tài bạch) là tư liệu để nuôi sống, nhất là trong xã hội 
thương nghiệp, địa vị xã hội của một người đầu như do tiền bạc quyết 
định, vì vậy việc luận đoán tiền bạc có hay không, và chủ yếu làm nghề 
nghiệp gì để kiếm tiền, đã trở thành vấn đề khá quan trọng.
      
   Liên quan đến vấn đề trọn nghề nghiệp gì cho thích hợp, đã được thảo 
luận khi tường thuật về tổ hợp tinh hệ của cung Mệnh, nên khi nghiên cứu
 cung Tài bạch, chủ yếu tập trung về thành tố "tài khí" như thế nào, có 
tiền của dần dần hay phát lên một cách nhanh chóng, sau khi có tiền của 
thì có giữ được hay không.
      
   "Tam phương tứ chính" của cung Tài bạch là đối cung Phúc đức, và hai 
cung tam phương là cung Mệnh và cung Sự nghiệp. Cung Phúc đức chủ về 
hoạt động tư tưởng và sự hưởng thụ tinh thần. Chuyện cơm áo gạo tiền 
khiến cho người ta phải lo toan nghĩ ngợi, và tình trạng nghèo hay giầu 
có thể ảnh hưởng đến tinh thần của một người. Đủ thấy tính chất ảnh 
hưởng qua lại của cung Phúc đức và cung Tài bạch.
      
   Đối với cung Mệnh, vận thế của mệnh tạo và cách cục chủ yếu được 
quyết định từ đây, đương nhiên có liên quan đến "tài bạch". Mối liên hệ 
giữa Sự nghiệp và Tài bạch, đương nhiên cũng là then chốt hỗ tương. Cung
 Mệnh, cung Sự nghiệp, cung Tài bạch hội hợp, đúng là tượng trưng cho 
"vị thế của lợi lộc".
      
   Nếu chỉ đơn thuần dựa vào cung Tài bạch của nguyên cục để luận đoán 
tiến bạc "được mất", thường thì chẳng đúng, bởi vì nó chỉ hiện thị những
 tính chất rất giới hạn. Nếu muốn luận đoán một cách tinh tế và chính 
xác, nhất định phải xem xét tới cung Tài bạch của đại hạn để luận đoán, 
sau đó mới có thể biết  sự phát triển tài vận của một đời người, còn 
cung Tài bạch nguyên cục chỉ chủ về xu thế chung của tài vận.
      
   Điều cần chú ý là, lúc luận đoán cung Tài bạch của đại hạn mà gặp 
"lưu Lộc", "lưu Quyền", "lưu Khoa", "lưu Tồn", "lưu Mã", "lưu Dương", 
"lưu Đà", thì tất cả chúng có cùng một tác dụng như các điều đã thuật về
 tính chất cơ bản của chúng.
      6- Cung Tai ách 
      
   "Tam phương tứ chính" của cung Tai ách là cung Phụ mẫu, cung Huynh đệ
 và cung Điền trạch. Tổ hợp tinh hệ này là do trong chế độ đại gia đình,
 bệnh tật rất dễ lây nhiễm, thêm vào đó ở xã hội phong kiến cổ đại, 
thành viên của gia tộc mà phạm tội, thường thường có thể liên lụy đến 
người thân, vì vậy tổ hợp "tam phương tứ chính" này có một ý nghĩa đặc 
thù.
      
   Hoàn cảnh xã hội diện đại tuy đã biến đổi, nhưng cung Tật ách đối 
xung với cung Phụ mẫu dùng để xem bệnh di truyền, và hội phương với cung
 Điền trạch để xem trạng thái sức khỏe của các thành viên trong gia 
đình. Thậm chí quan sát các sao thủ các cung hội hợp với cung Huynh đệ 
để xem "đời người" có hung ách hay không, theo kinh nghiệm của phái 
Trung Châu mà Vương Đình Chi đại diện thì vẫn hữu hiệu.
      
   Cung Tai ách chủ về bệnh tật và tai ách. Nhưng liên quan đến vấn đề 
tai ách có xảy ra hay không, cung Tai ách thực ra chỉ có thể dùng để 
tham khảo. Bởi vì khi luận đoán tai ách, thường thường phải phối hợp 
thêm tinh hệ của cung Mệnh, hơn là dùng trực tiếp tinh hệ của cung Tai 
ách. Còn đối với việc luận đoán bệnh tật, thì nên xem xét cả tinh hệ của
 cung Mệnh lẫn tinh hệ của cung Tai ách, hai cung đều quan trong ngang 
nhau. Ví dụ như "Liêm trinh Thất sát" thông thường chủ về bệnh đường hô 
hấp, nếu cung Tai ách gặp tinh hệ này thì đương nhiên có ý nghĩa này, 
nhưng nếu cung Tật ách gặp sao Ác, mà cung Mệnh là "Liêm trinh Thất 
sát", thì cũng chủ về đường hô hấp.
      
   Có lúc thậm chí phải lấy tinh hệ của cung Mệnh và tinh hệ của cung 
Tai ách phối hợp lại để luận đoán một loại bệnh tật. Ví dụ cung Tật ách 
gặp "Liêm trinh Thất sát", có Sát tinh hội chiếu, cung Mệnh gặp Hồng 
loan và Thiên hỷ, theo luận giải của Vương Đình Chi có thể phát hen 
suyễn, hoặc tạm thời không phát tác, đến khi cung Mệnh của đại hạn hoặc 
lưu niên gặp Hồng loan, Thiên Hỷ, lại có thêm lưu Sát tinh xung hội thì 
mới phát bệnh.
      
   Thí dụ kể trên có thể biết, dựa vào các sao để luận đoán tật bệnh là 
rất khó. Trung Châu phái chỉ trình bầy một số kinh nghiệm bí truyền và 
nghiên cứu của Vương Đình Chi về tính chất các tinh hệ trong vấn đề bệnh
 tật và tai ách, khi nghiên cứu nên vận dụng linh hoạt, không nên quá 
câu nệ. Có lúc phải mang các sao của cung Mệnh và cung Tai ách, cùng với
 các sao hội hợp ở tam phương tứ chính ra đồng thời tham chiếu, thậm chí
 còn phải mang "Lưu diệu" của đại hạn hoặc lưu niên ra phối hợp để luận 
đoán, mới có thể chính xác.
      
   Ví dụ trường hợp xem bệnh ung thư vòm họng, tinh hệ chủ yếu vẫn là 
"Liêm trinh Thất sát", hành vận đến cung hạn Thiên đồng và Cự môn đối 
nhau, nếu đại hạn có các sao Sát Kị cùng chiếu, mà còn gặp Long trì đồng
 độ hoặc xung chiếu cung Mệnh, còn "Liêm trinh Thất sát" lại hội hợp với
 Hỏa tinh Linh tinh, hoặc Thiên hình, thì trong đại hạn này sẽ phát 
bệnh. Lấy trường hợp này làm ví dụ, để người nghiên cứu có thể thấy được
 phần nào phép tắc luận đoán bệnh tật.
      
   Dùng Đẩu Số luận bệnh tật hoàn toàn lấy nguyên lý Âm Dương Ngũ hành 
của Đông y làm căn cứ, cho nên rất khó luận đoán kết hợp với tên gọi các
 bệnh theo Y học hiện đại.
      7- Cung Thiên Di 
      
   Trong Đẩu Số, cung Thiên di dùng để luận đoán về vấn đề từ nơi sinh 
ra dời đến nơi khác để ở, đồng thời cũng có thể dùng để luận đoán tình 
trạng xuất ngoại để kinh doanh. Cung Thiên di của lưu niên, cũng luận 
đoán về những tao ngộ khi đi đâu xa, như có vui vẻ hay không? có bị trộm
 cướp hay không? có gặp điều gì bất ngờ hay không?
      
  Do cung Thiên di và cung Mệnh xung chiếu nhau, vì vậy các sao của cung
 Di cũng ảnh hưởng đến tính cách của mệnh tạo, đặc biệt là về năng lực 
xã giao, quan hệ giao tế, .v.v...
      
   Cung Di tương hội với cung Phúc, nên sự hưởng thụ tinh thần của một 
người đúng là có liên quan với quan hệ giao tế và hoạt động xã giao củ 
người đó. Còn việc đi ở nơi khác đem lại kết quả tốt hay xấu, đương 
nhiên có thể căn cứ phần nào vào tinh trạng hưởng thụ tinh thần mà luận 
đoán.
      
   Cung Di tương hội với cung Phu thê là rất hợp lý, bởi vì cho dù ở 
thời cổ đại, một người rời đại gia đình để phát triển hoặc vẫn ở quê 
hương sinh sống làm ăn, đương nhiên cũng có quan hệ với sinh hoạt vợ 
chồng. Các mối quan hệ xã giao cũng không thể không bị ảnh hưởng của 
người phối ngẫu. Đối với việc mang gia đinh đi nơi khác lập nghiệp thì 
càng có quan hệ mật thiết với người phối ngẫu.
      
   Do đó có thể thấy, tổ hợp các sao ở cung Di trong Đẩu Số là rất quan 
trọng, thậm chí có thể nói chỉ kém hơn cung Mệnh và cung Thân. Hơn nữa 
khi luận đoán xu thế mệnh vận của một người, có một điểm cần biết, đó là
 khi một người rời nơi sinh ra, đến nơi khác để ở, xu thế vận mệnh của 
năm đầu tiên, là do cung Di quyết định, mà không phải do cung Mệnh quyết
 định. Do đó cần phải lấy cung Di làm cung Mệnh để xem xét, các cung vị 
khác vẫn không thay đổi.
      
   Giả dụ một người không ngừng di chuyển (như thuyền viên, phi công, 
.v.v...), không ở cố định một nơi nào, cũng phải lấy cung Di làm cung 
Mệnh để luận đoán.
      8- Cung Giao hữu (Nô bộc)
      
   Cung Giao hữu cổ nhân gọi là cung Nô bộc. Trong xã hội cổ đại, "nô 
bộc" là thành viên của gia đình. Một đời làm "nô bộc", đời đời là "nô 
bộc", cho nên sự tốt xấu của cung Nô bộc đúng là có liên quan đến sự 
thịnh suy của gia tộc. Vì vậy các nhà Đẩu Số cổ đại khi luận đoán khá 
xem trọng "nô bộc" có lực hay không? nô bộc nhiều hay ít? có phản chủ 
không? có giúp đỡ chủ không? mức độ trợ lực cho chủ là cao hay thấp?
      
   Ngày nay, cung Nô bộc đổi thành cung Giao hữu là một sự cách tân rất 
lớn. Về mặt lý luận, ngày nay đã không còn mối quan hệ chủ tớ như ngày 
xưa, dó đó về căn bản, không cần nhìn từ "nô bộc" để suy diễn ra vận 
mệnh của một gia tộc. Nhưng sự tốt xấu của các mối quan hệ giao tế là 
rất quan trọng đối với người hiện đại, việc sửa đổi thành cung Giao hữu 
đúng là đã mang lại cho khoa Đẩu Số cổ xưa một hàm nghĩa mới.
      
   Có lẽ, nhiều người sẽ hoài nghi rằng: "Cổ nhân truyền lại pháp môn 
này, sao có thể tùy tiện sửa đổi?" Thực ra Đẩu Số là đời đời tương 
truyền, đã luôn luôn biến động thay đổi, từ "Thập bát phi tinh" phát 
triển thành "Tử Vi Đẩu Số" chính là một biến động thay đổi cực lớn. Về 
sau, từ thời Nam Tống cho đến Minh Thanh, đời nào cũng có người truyền 
lại không ít khẩu quyết khá hữu dụng, đó cũng là sự biến đổi cách tân 
trong Đẩu Số. Vì vậy vấn đề không phải ở chỗ có nên thay đổi hay không, 
mà là những thay đổi cách tân đó có hợp lý hay không?
      
   Thử xét tam phương tứ chính của cung Nô bộc, đối cung là cung Huynh 
đệ, cung hội hợp là cung Phụ mẫu và cung Tử tức, đây rõ ràng là một tổ 
hợp tổ tông ba đời và nô bộc, cũng tức là một mô thức điển hình của gia 
tộc cổ xưa.
      
   Ngày nay lấy tính chất "nô bộc" biến đổi thành tính chất "quan hệ 
giao tế". Theo phái Trung Châu, cũng lấy cung Huynh đệ xem là quan hệ 
với người ngang vai. Lấy cung Phụ mẫu xem là quan hệ với bậc trưởng bối.
 Lấy cung Tử tức xem là quan hệ với những người thuộc vãn bối. Các sao 
của ba cung vị này hội chiếu với cung Giao hữu, vì vậy sẽ phản ảnh các 
mối quan hệ giao tế một cách chỉnh thể.
      
   Lúc luận đoán Đẩu Số, khi lấy cung Giao hữu dùng để luận đoán về mối 
quan hệ với nhân viên làm thuê hoặc người dưới quyền, cũng cần đồng thời
 lấy "Phụ mẫu"xem là ông chủ, thượng cấp, hoặc bậc tiền bối trong nghề 
nghiệp của mệnh tạo, lấy "Tử tức" xem là trợ thủ trực thuộc, hoặc những 
người thuộc lớp vãn bối trong nghề nghiệp của mệnh tạo, và lấy "Huynh 
đệ" xem thành nhưng người ngang vai với mệnh tạo, còn cung Giao hữu là 
một phản ánh chung.
      
   Người mới bắt đầu tiếp cận với Đẩu số thường mắc phải một bệnh, đó là
 không quan sát toàn diện các sao của các cung có liên quan. Lấy việc 
không quan sát các sao của cung "nô bộc" làm ví dụ, cổ nhân lấy cung Phụ
 mẫu và cung Nô bộc có quan hệ hỗ tương như thế nào, từ đó có thể biểu 
thị tình trạng "nô bộc" của đời "phụ mẫu". Nếu cũng lấy cung Huynh đệ và
 cung Tử tức ra quan sát, xem xét mối quan hệ hỗ tương của chúng với 
cung Nô bộc, thì có thể biết được tình trạng "nô bộc" ba đời.
      
   Ngày nay quan sát cung Giao hữu cũng có thể dùng biện pháp như vậy. 
Nếu lấy cung Phụ mẫu và cung Giao hữu ra so sánh, đồng thời tiến hành 
nghiên cứu mối quan hệ của chúng, thì có thể nhìn ra mối quan hệ của 
thượng cấp và người dưới quyền của mệnh tạo.
      
   Ví dụ như cung Phụ mẫu có Thiên lương độc tọa ở Ngọ, cung Giao hữu có
 Thiên đồng độc tọa ở Tuất, còn cung Huynh đệ là Cự môn ở Thìn có Sát 
tinh chiếu xạ, thế là chúng ta có một giả định tốt nhất là: thượng cấp 
là một người rất thích soi bói, bới lông tìm vết, trong đồng sự có người
 ưa đâm bị thóc chọc bị gạo, vì vậy mà bản thân mệnh tạo thường bị ở vào
 tình trạng lúng túng, khó xử về quan hệ giao tế ở nơi làm việc, có thể 
sẽ bị lôi kéo vào vòng tranh chấp, bất hòa. Điềm này có thể nhìn ra từ 
tính chất của Thiên đồng ở cung Tuất.
      
   Nhưng nếu Thiên lương có hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa hội hợp, thì 
tính chất của Thiên lương sẽ biến thành cao thượng, độ lượng, Thiên đồng
 thủ cung Giao hữu cũng sẽ bị ảnh hưởng của "Lộc Quyền Khoa hội" mà được
 cải thiện.
      
   Trung Châu phái đưa ra phương pháp luận đoán này, có thể giúp cho 
người mới nghiên cứu Đẩu Số tìm ra tình trạng quan hệ nhân tế của mỗi 
giai đoạn trong cuộc đời một người khá rõ ràng.
      9- Cung Sự nghiệp (Quan lộc)
      
   Cung Sự nghiệp cổ nhân gọi là cung Quan lộc, đó là vì ở thời cổ đại 
địa vị xã hội của những người trong giới "công", "thương", "nông", đều 
rất thấp, chỉ có học hành để ra làm quan mới là con đường tốt nhất.
      
   Cho nên trong tinh bàn Tử vi Đẩu Số, cung Quan lộc và cung Phu thê 
phải đối nhau. Đó là vì Quan lộc sự nghiệp của một người có thể ảnh 
hưởng đến địa vị của vợ con.
      
   Ngày nay xã hội đã hoàn toàn khác, địa vị của giới doanh nhân rất 
cao, tất cả đều coi trọng tiền bạc, có thể nói mọi con đường đều quy tụ 
về tiền. Học hành để ra làm quan không còn là con đường lý tưởng duy 
nhất. Người đàn ông thường lấy sự nghiệp làm trọng, vì vậy "cung Quan 
lộc" được các nhà Đẩu Số hiện đại đổi lại cách gọi tên, được gọi là cung
 Sự nghiệp. Mà cung Sự nghiệp và cung Phu thê xung chiếu nhau, cũng có 
nghĩa là xem sự nghiệp và gia đình mâu thuẫn nhau. Vì vậy cần quan sát 
các sao của hai cung này xem có điều hòa hay không.
      
   Trong bối cảnh như vậy, cổ nhân đã định ra một số nguyên tắc luận 
đoán "cung Quan lộc" có thể nói là không còn hợp thời. Ví như "Thái 
dương nhập miếu được Cát tinh vây chiếu là quan nhất phẩm đương triều" 
(Thái dương nhập miếu đắc cát củng, nhất phẩm đương triều), "Thiên đồng 
nhập miếu, chức quan văn võ tam phẩm" (Thiên đồng nhập miếu, văn vũ tam 
phẩm chi chức), "Phá quân ở cung nhàn nên làm nghề thủ công, gặp Cát 
tinh thì có thể mua chức quan" (Phá quân nhàn cung nghi thủ nghệ, kiến 
cát tắc khả quyên ban). Tất cả những luận đoán này, ít nhiều đã lỗi thời
 ở thời hiện đại.
      
   Nói một cách thẳng thắn, chúng ta có thể biết tính chất tổ hợp các 
sao phù hợp với nghề gì, nhưng lại không thể dựa vào các sao mà nói ra 
nghề nghiệp cụ thể của nó. Ngoài ra, khi phán đoán nghề nghiệp của một 
người, còn phải tham khảo các sao của cung Mệnh và cung Phúc đức, điểm 
này cần chú ý.
      Liên quan đến vận thế sự nghiệp cuộc đời của một người, cũng không 
nên chỉ căn cứ ở cung Sự nghiệp nguyên cục để luận đoán, mà còn cần phải
 quan sát sự di chuyển của đại hạn và lưu niên, căn cứ vào cung Sự 
nghiệp của hành hạn, để nghiên cứu một cách tỷ mỉ, thêm vào đó là phối 
hợp "Lưu diệu", xem vận thế nghề nghiệp thuận hay nghịch như thế nào, tự
 nhiên có thể đưa ra phán đoán chính xác hơn.
      10- Cung Điền trạch 
      
   Trong Đẩu Số, cung Điền trạch có hai ý nghĩa:
      
   Một là, quan sát các sao ở cung Điền trạch của nguyên cục, có thể 
biết được vận thế địa sản của cuộc đời mệnh tạo, như cha mẹ có để lại di
 sản không, sau khi thừa kế di sản có phá tán, thất bại không, và vận 
thế mua thêm nhà cửa đất đai của mệnh tạo như thế nào?
      
   Hai là, quan sát các sao cua cung Điền trạch của lưu niên hoặc đại 
hạn, có thể biết được năm (hoặc đại hạn) nào có thể mua thêm nhà cửa đất
 đai không, có dời chỗ ở không.
      
  Hai điểm vừa thuật ở trên, là ý nghĩa phổ biến của cung Điền trạch. 
Ngoài ra, cung Điền trạch còn có thể dùng để trợ giúp luận đoán vận gia 
trạch của lưu niên. Lúc này liên quan đến tính chất của tổ hợp các sao ở
 cung Điền trạch.
      11- Cung Phúc Đức 
      
   Tác dụng của cung Phúc đức trong Đẩu Số, là dùng để luận đoán hoạt 
động tư tưởng và sự hưởng thụ tinh thần của một người. Nếu so với cung 
Mệnh và cung Thân, có thể nói cung Mệnh và cung Thân là chủ về hưởng thụ
 vật chất, vận trình thực tế, còn cung Phúc đức thì chủ về những thứ 
trìu tượng hơn.
      
   Có một số người nhìn bề ngoài thì nhận thấy "công thành danh toại" 
khiến cho người ta phải ngưỡng mộ, nhưng có thể nội tâm của người này 
đang đau khổ mà người ngoài cuộc không biết. Đây là vì cung Mệnh và cung
 Thân người này tốt, nhưng cung Phúc đức lại có những khiếm khuyết đáng 
tiếc. Hoặc ngược lại, có một số người chỉ được no ấm mà thôi, nhưng nội 
tâm của họ lại rất vui vẻ, đây là do cung Mệnh và cung Thân không tốt 
mấy, mà cung Phúc đức lại tốt.
      
   Cung Phúc đức và cung Tài bạch đối nhau, có thể thấy sinh hoạt tinh 
thần vẫn không thể thoát khỏi sự ràng buộc của tài phú, tam phương hội 
chiếu với cung Phu Thê cũng đủ nhận thấy sự hưởng thụ tinh thần của một 
người có tương quan mật thiết với sinh hoạt hôn nhân, tam phương cũng 
tương hội với cung Thiên Di, là do hoạt động tư tưởng của con người ta, 
có thể ảnh hưởng đến động hướng của người đó. Ở quê nhà hay đi xa để tìm
 hướng phát triển, thường chỉ quyết định trong một hoài niệm.
      
   Những điều trình bầy trong "tiết" này sẽ lấy tình trạng tốt xấu của 
sự hưởng thụ tinh thần làm điểm chính yếu. Còn về phương diện hoạt động 
tư tưởng, do mỗi người được giáo dục ở nhiều mức độ khác nhau, thì rất 
khó tiến hành giảng giải một cách cụ thể, chỉ có thể đưa ra một số điểm 
chính yếu quan trọng.
      
   Khi luận đoán cung Phúc đức, lấy cung Phúc đức của Thiên bàn làm chủ,
 dùng để luận đoán bản chất tư tưởng và xu thế chủ yếu về phương diện 
hưởng thụ tinh thần của mệnh tạo. Cung Phúc đức của đại hạn và lưu niên 
(Nhân bàn) dùng để xem biến thiên theo từng năm mà xác định được sự thay
 đổi về tư tưởng, cách nhìn nhận về một vấn đề của người đó. Như cung 
Phúc đức của Thiên bàn là sao Tử vi, có nghĩa là Tử vi là bản chất, 
trong một vận trình gặp Thiên cơ ở cung Phúc đức của đại hạn hay lưu 
niên, thì tinh thần đôn hậu vững vàng của Tử vi vẫn không thay đổi, 
nhưng lại chủ về mệnh tạo sau khi lớn lên sẽ tăng thêm tính linh động, 
mưu trí và quyền biến. Như vậy khi luận đoán nhát thiết không được xem 
thường tính chất chủ yếu của cung Phúc đức nguyên cục.
      12- Cung Phụ Mẫu:
      
   Trong Đẩu Số, cung Phụ mẫu có 3 ý nghĩa về luận đoán:
      
   Một là, luận đoán duyên phận của mệnh tạo đối với cha mẹ, các tình huống sống chết tồn vong, cát hung họa phúc của cha mẹ.
      
   Hai là, mối quan hệ giữa mệnh tạo với thượng cấp, hay ông chủ như thế nào ?
      
   Ba là, trong xã hội phải có quan lại quản hạt, hoặc cấp chủ quản 
trong công việc, họ có thể ước thúc hành động của mệnh tạo trong một 
thời kỳ. Những quan lại quản hạt hoặc cấp chủ quản trong công việc này 
có mối quan hệ như thế nào đối với mệnh tạo ?
      
   Trong ba điểm trên, cung Phụ mẫu của Thiên bàn (hoặc Địa bàn) chủ yếu dùng để luận đoán điểm "Một".
      
   Sau khi luận đoán được tính chất chủ yếu, vẫn cần phải căn cứ vào 
cung Phụ mẫu của từng Đại hạn và mỗi một lưu niên (Nhân bàn) để luận 
đoán, để xác định cát hung họa phúc của cha mẹ mỗi thời kỳ.
      
   Còn điểm "Hai" và "Ba" chủ yếu được dùng để luận đoán cung Phụ mẫu 
của đại hạn hoặc lưu niên (Nhân bàn). Nhưng cần phải ứng dụng một cách 
linh hoạt những tính chất thuật ở Tiết này.
      
   Ví dụ như Thiên Cơ thủ cung Phụ Mẫu, khi có Thiên Mã đồng độ hoặc 
xung chiếu, thì chủ về còn bé đã chia ly với gia đình. Lúc gặp kết cấu 
tinh hệ này ở cung Phụ mẫu của lưu niên, lại có thể là một vận trình ly 
biệt do thượng cấp đề bạt mệnh tạo, hoặc chủ về mệnh tạo rời khỏi công 
ty mình đang làm.
      
   Ví dụ khác, "Thiên đồng Cự môn" đồng độ thủ cung Phụ mẫu chủ về cha 
con bất hòa. Lúc gặp kết cấu tinh hệ này ở cung Phụ mẫu của lưu niên, 
thì có thể trong năm đó, chủ về có sự bất hòa với người chủ của mình.
      
   Hiểu rõ ý nghĩa thực sự của cung Phụ mẫu thì khi luận đoán mới phát 
huy tác dụng. Trong lúc ứng dụng thực tế, người nghiên cứu nhát định sẽ 
cảm thấy bối rối khi gặp tổ hợp các sao ở cung Phụ mẫu của đại hạn hoặc 
lưu niên, không biết tính chất của tinh hệ rốt cuộc dùng để đại biểu cho
 cha mẹ, hay đại biểu cho thượng cấp, hay là đại biểu cho cơ cấu chủ 
quản hoặc quan lại quản hạt?
      
   Trung Châu phái cho rằng, thông thường có thể dùng biện pháp xem kèm 
cung vị khác để giải quyết, như xem kèm cung Quan để luận đoán tình 
trạng quan hệ với thượng cấp, xem kèm cung Điền trạch để luận đoán tình 
trạng cát hung của cha mẹ, xem kèm cung Phúc đức để luận đoán tình trạng
 giao thiệp với với cơ cấu chủ quản hạt, cả ba đều nên xem kèm cung Mệnh
 để luận đoán.
      
   Đương nhiên, cũng có một số tình hình thực tế vốn không có gì phức 
tạp. Ví dụ một người qua tuổi trung niên, có thể cha mẹ đã qua đời, bản 
thân lại là ông chủ, thế thì tính chất các sao ở cung Phụ mẫu của đại 
hạn và lưu niên đương nhiên chỉ liên quan đến đơn vị quản lý hạt. Ví dụ 
Thiên Lương nhập thủ cung Phụ mẫu của lưu niên, có Thiên Khôi Thiên Việt
 đồng độ hoặc hội chiếu, vốn chủ về mệnh tạo được cha mẹ che trở, lúc 
này sẽ biến thành có thể được cơ quan giúp đỡ.
      
   Hiểu rõ những nguyên tác luận đoán vừa thuật ở trên, người nghiên cứu Đẩu Số có thể tự luận thuật một cách linh hoạt.
     
     
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét