Khâm thiên giám

Thất sát tinh - Toàn thư

      Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thất sát là âm Thủy, lại thuộc âm Kim (tức Kim đã bị lửa nung chảy), tại Đẩu là ngôi sao thứ sáu thuộc chòm Nam Đẩu, hóa Khí là Tướng, gặp sao Tử vi sẽ hóa Quyền, tại Số chủ về tàn sát, là sao Cô Thần thành bại (tức mức độ biến động thành bại rất lớn).

      Ba sao Thất sát, Tham lang, và Phá quân luôn nằm tại cung vị tam phương hội hợp trong lá số để hội chiếu lẫn nhau, nên được gọi là tổ hợp "Sát Phá Lang", hay "Trúc la tam hạn". Đại hạn, tiểu hạn hoặc lưu niên gặp phải tổ hợp này, chủ về vận mệnh có nhiều biến động, nhiều bước ngoặt lớn. Nếu như bản cung và cung vị tam phương tứ chính đều Cát, đại hạn, tiểu hạn và lưu niên tiếp theo cũng tốt, thì vận mệnh cũng có chuyển biến tốt đẹp. Nếu ngược lại, bản cung và cung vị tam phương tứ chính đều Hung, đại hạn, tiểu hạn hoặc lưu niên  tiếp sau cũng hung, thì vận mệnh sẽ chyển biến theo chiều hướng xấu.


      Mức độ biến động của sao Thất sát có phần nhỏ hơn so với sao Phá quân, thế nhưng lại mang cùng một tính cách, là ưa mạo hiểm, dũng cảm đi đầu, nhưng sao Phá quân thích được Tử vi, Lộc tồn, Hóa Lộc trợ giúp, nên vẫn có thể gặp được kẻ tri âm. Trong khi đó sao Thất sát do quá độc lập tự chủ, nên thành ra cô độc ít bạn bè.  


      Sao Thất sát có tài hoạch định, mưu lược, sắp xếp kế hoạch, bởi vậy rất ly trí và độc lập. Nên, sao Thất sát tốt nhất là đứng một mình, để phát huy tốt đa ưu điểm độc lập của mình, các cát tinh đều không mang lại trợ giúp gì đáng kể cho Thất sát, cùng lắm là tăng thêm ít nhiều khí thế cho Thất sát mà thôi. Sát tinh cũng không thể uy hiếp được Thất sát. Thất sát nhập miếu có thể khắc chế tinh hung của sáu Sát tinh Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp. Sao Hóa Kị cũng bị Thất sát thuần phục, thế nhưng do sao Thất sát đã sử dụng toàn lực để khống chế sát tinh, nên trong vận mệnh vẫn phải nếm trải nhiều gian khổ mới có thể đạt đến thành công.


      Sao Thất sát nhập miếu tại Tý Dần Ngọ, nếu tại cung vị tam phương tứ chính không có sát tinh, hoặc không gặp sao Hóa Kị, là cách "Thất sát triều Đẩu", chủ về cuộc đời nhiều biến động, nhưng về sau sẽ được vinh hiển.

      Hỏa tinh nhập miếu trấn mệnh tại Dần Ngọ Tuất, tam phương hội chiếu với các sao Thất sát, Hóa Lộc, Hóa Quyền, là cách "Quyền Sát hóa Lộc", chủ về anh hùng khí khái, uy phong lẫm liệt.
      Sao Liêm trinh trấn mệnh, sao Thất sát nằm cùng cung, hoặc tại cung tam phương tứ chính hội chiếu, lại có thêm Hóa Kị, bốn sát tinh và Phá quân, là cách "Sát củng Liêm trinh", chủ về phiêu bạt, bất ổn, tai họa triền miên.


SAO THẤT SÁT TỌA THỦ CUNG MỆNH


Thất sát = 0
Tử vi + 3
Thất sát + 3
Thất sát + 4
Liêm trinh + 1
Thất sát + 4
Thất sát + 4


Thất sát + 3
Vũ khúc + 1
Thất sát + 3
Vũ khúc + 1


Thất sát + 4

Thất sát + 4
Thất sát + 4
Liêm trinh + 1
Thất sát + 3
Thất sát = 0
Tử vi + 3
Độ sáng của sao Thất Sát tọa thủ 12 cung

      Độ sáng của sao Thất sát - chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao. 

      Mối quan hệ của chúng như sau:
 

- Miếu = + 4
- Vượng = + 3
- Địa = + 2
- Lợi = + 1
- Bình hòa = 0
- Không đắc địa = - 1
- Hãm địa = - 2


      Dung mạo và tính cách

      Người mà sao Thất sát tọa thủ cung mệnh, thường mắt to, dung mạo uy nghi, ánh mắt sắc bén, cơ thể hơi đẫy đà, động tác nhanh nhẹn, giọng nói to. Nữ nhi thì gò xương lông mày hơi nhô lên, vành tai nổi, ngũ quan đoan chính, dung mạo đáng yêu.
      Sao Thất sát thủ mệnh, chủ về tính cách nóng vội, vui buồn thất thường, hành sự hay nghi ngờ sợ sệt, mọi tình cảm vui buồn đều biểu hiện ra ngoài, sau khi tức giận thì ngay lập tức lại vui vẻ, giống như bầu trời sau cơn mưa.
      Thất sát thủ mệnh là người độc lập mạo hiểm, có ý chí phấn đấu, có khí khái anh hùng, thích cạnh tranh, không thích bị người khác ràng buộc và can thiệp vào. Nghị lực kiên cường, chí dũng quyết đoán, có hoài bão và tầm nhìn xa, cũng như có tầm quan sát bao quát đến đại cục và khí khái làm việc lớn không câu nệ tiểu tiết.
      Thích ra lệnh, tâm tư tình cảm không ổn định, lời nói và cách nói dễ phát sinh xung đột, thường thích làm việc một mình lại thích là việc làm phải lớn, hành động thuận theo tình cảm của mình mà không lường đến hậu quả, có lúc thì lại lập dị khác người.

      Nữ giới mà có sao Thất sát tọa thủ cung mệnh, tính cách chủ về hướng ngoại, hành sự rộng lượng, độc lập có cá tính. Sau khi kết hôn thường nên xuất ngoại làm việc, nếu không, thì thường không tha thứ cho những chỗ khiếm khuyết của chồng, khiến cho chồng chống đỡ không nổi, sự hài hòa trong hôn nhân do đó mà bị ảnh hưởng. Khi Thất sát rơi vào thế miếu hay vượng, gặp sao Hóa Quyền, Hóa Lộc (hoặc Lộc tồn) chủ về người phụ nữ tài quyền hơn người, chí vượt chồng, sinh vượng cho chồng, tốt cho con. Sao Thất sát rơi rụng xuống, hoặc có tứ sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh xung phá, thường chủ về cô độc hà khắc


      Suy đoán mệnh lý

      Sao Thất sát và sao Phá quân đại là đại tướng dưới chòm sao Tử vi, nhưng sao Phá quân thì thuộc chòm sao Bắc Đẩu, là đại tướng trước điện của Đế tinh dũng mãnh vô song, phải nghe theo mệnh lệnh của sao Tử vi. Sao Thất sát thuộc chòm sao Nam Đẩu, là chủ soái biên cương bày mưu lập kế, mang đặc tính mệnh cách "ớng ở biên thùy, đôi khi không nghe theo quân mệnh", nên hành động độc đoán.

      Sao Thất sát, với năng lực bày mưu tính kế và đặc tính hành động độc đoán, thích hợp nhất là ngồi một mình mà phát huy năng lực lý trí và tính cách độc đoán của mình. Bất kỳ Cát tinh nào cũng không có tác dụng trợ giúp đối với sao Thất sát, có chăng, chỉ là ít nhiều tăng thêm chút khí thế mà thôi. Bất kỳ Sát tinh nào cũng không thể uy hiếp được sao Thất sát, nếu có chỉ làm cho nó gian lao vất vả thêm một chút mà thôi. Do đó, về mặt quan hệ với mọi người và về mặt tình cảm, thì rất khó có thể tiếp cận, thường nội tâm mang suy nghĩ "tri âm khó tìm", về mặt tình cảm cũng rất khó có thể cùng người tìm được tiếng nói chung, nên dễ bị người khác hiểu nhầm, rằng tự cho mình là thanh cao. Vì vậy, người mà sao Thất sát thủ mệnh mặc dù có mưu lược, cũng như một mình có thể đảm đương một phương diện, sự nghiệp thành công, nếu theo nghiệp Võ hoặc công chức nhà nước, thì sẽ đạt được mục đích mong muốn, ở được ngôi vị cao, nhưng khó có thể tự đứng ra lập nghiệp một cách độc lập. Về mặt tình cảm cũng khó tránh khỏi việc tự cho mình là thanh cao mà dẫn đến cô độc không chỗ dựa. Do đó nên kết hôn muộn, để tránh vì đối phương mà phải trả giá quá nhiều.


      Sao Thất sát chủ cô độc, nếu nhập vào cung mệnh, đều chủ về lục thân duyên bạc, khi nhỏ thì bôn ba vất vả nhưng từ đó mà có thể tự lập, trí dũng, quyết đoán, khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng.


      Nữ mệnh có sao Thất sát độc thủ trấn cung mệnh, chủ về yểu mệnh. Sao Thất sát một mình chiếm cứ cung Phúc đức, chủ về đa tình.


      Sao Thất sát mặc dù thích độc tọa, nhưng khi gặp Tử vi đế tinh, thì "hóa Sát thành Quyền", có thể giảm khí "tiêu điều xơ xác", còn có thể nắm quyền của chủ soái, đồng thời hưởng phúc ấm của sao Tử vi.


      Sao Tử vi, Thiên phủ, và Thất sát, đều có đặc tính cô độc. Sao Tử vi là hoàng đế của vạn vua, thống lĩnh tất cả mọi ngôi sao. Ở phía trên, tất cả mọi quần thần đều tôn kính sợ hãi, cẩn thận ứng đối, khó tránh được sự cô độc vì địa vị cao không có người bạn tri âm. Nhưng, nếu được các sao Thiên phủ, Thiên tướng, Tả phụ, Hữu bật phò tá, thì chỉ cần phát hiệu lệnh là được, đồng thời còn có thể tránh được sự ưu phiền vì cô độc. 

      Sao Thiên phủ là quân vương ở biên cương, chủ quản 7 ngôi sao của chòm Thiên phủ, đứng dưới một người mà đứng trên muôn người, cố định là cô độc trên thế giới, đồng thời do tính cách ngoan cố bảo thủ của Thiên phủ, nên chỉ có thể có được sự trợ giúp của sao Thiên tướng. 
      Sao Thất sát là chủ soái nơi chiến trường biên cương "tướng ở biên thùy, đôi khi không nghe theo quân lệnh", phàm là có việc thì sẽ làm ngay, trí dũng song toàn, nhưng không có cách nào để hoàng đế biết được hoàn cảnh thực sự của mình, để trợ giúp cho mình trong bất kỳ hoàn cảnh nào, mà vẫn phải tự bản thân mình chịu trách nhiệm về thắng - thua được - mất của chiến trận. Những điều sao Thất sát suy nghĩ trằn trọc ấp ủ trong lòng, cũng không có cách nào thể hiện cho binh sĩ hiểu được, cho nên tự nhiên thành cô độc, gian nan, hiu quạnh, khiến người khác có cảm giác xa cách.

      Sự cô độc của sao Thất sát, thường là một người ở một mình, nội tâm lại tự cảm thấy cô độc, thậm chí khi ở cùng đông đảo mọi người mà trong lòng vẫn cảm thấy cô độc. Vì vậy, mặc dù sau khi trải qua một khoảng thời gian, hoặc sau khi huyên náo vui vẻ, thì lại muốn cô độc một mình để điều chỉnh tâm tình, đối diện và nhận thức bản thân mình, dễ chìm vào trong sự cô độc, lâu ngày thì sẽ cảm thấy cô độc chính là một phương pháp hưởng thụ.


      Sao Thất sát, ngoài việc phải tự chịu trách nhiệm đối với bản thân mình ra, thì phải chịu trách nhiệm đối với mọi người, loại trách nhiệm tự mình cáng đáng này, thì người bên cạnh không thể cảm nhận được. Đây, có lẽ cũng chính là nguyên nhân mà sao Thất sát thực sự cảm thấy cô độc.


      Thất sát, Phá quân, Tham lang, là ba sao ở trạng thái động, vĩnh viễn hội chiếu lẫn nhau ở cung vị tam phương tương hội trong mệnh bàn, hình thành mệnh cách Sát Phá Lang (hoặc còn gọi là tổ hợp của: Trúc La tam hạn). Đại hạn, tiểu hạn, hoặc lưu niên nhập vào trong một cung bất kỳ mà ba cung này trấn giữ, thì vận mệnh tất sẽ có biến động. 


      Cả ba sao Sát Phá Lang cùng biểu hiện ra tính biến hóa, tính sáng tạo, và tính cạnh tranh. Thủ lĩnh của nhóm biến hóa này chính là sao Thất sát. Sao Thất sát là chúa tể của sự thành bại, cần phải ra quyết sách và lãnh đạo một cách cụ thể đối mặt trực tiếp với hoàn cảnh, đồng thời phải đối diện với kết quả thành bại, được mất. Cần dũng cảm, mạo hiểm, không sợ gian nan, đôi khi rõ ràng biết là không thể làm được nhưng vẫn quyết tâm thực thi, quyết làm bằng được, do đó nuôi dưỡng được gan dạ sáng suốt và ý trí kiên định, khiến người khác kinh ngạc, đồng thời lòng dạ rộng mở thản nhiên đối diện với sự thành bại được mất.


      Sự biến đổi của ba sao Sát Phá Lang không giống nhau. Sự biến đổi của sao Thất sát mang tính kéo dài có tính phát triển liên đới mở rộng, tính chất thiên về sự cô độc và hiu quạnh, mức độ biến động trung bình.

      Sự biến động của sao Phá quân thì có tính sửa đổi và tính khai sáng, tính chất thiên về tiền tài và tình cảm, mức độ biến động là lớn nhất.
      Sự biến động của sao Tham lang thì có tính danh lợi và dục vọng, tính chất thiên về tửu, sắc, tài, khí, mức độ biến động là nhỏ nhất khi so với Thất sát và Phá quân. Cho nên cổ nhân mới gọi theo thứ tự Sát rồi tới Phá rồi tới Lang.

      Người mà sao Thất sát thủ mệnh, thường có cơ hội rời bỏ quê hương, theo đuổi công việc liên quan ở nước ngoài hoặc ở nơi xa quê, nên có tín ngưỡng tôn giáo, đồng thời vận động có định kỳ. Khi gặp lục sát tinh trong thế tam phương tương hội thì bị xung động, tâm tư tình cảm không ổn định nên ảnh hưởng tới tính cô độc khó thay đổi, cuộc đời có thể bị biến đổi thăng trầm lớn. Nên thích hợp tới những việc mang nội dung văn hóa văn nghệ, để tu dưỡng và thích nghi giải tỏa tâm lý, khi ở tình cảnh bị lục sát gây ảnh hưởng trở ngại. 


      Sao Thất sát không thích ở cùng cung với các sao đào hoa, như Tham lang, Liêm trinh, Văn khúc, Hữu bật, Hồng loan, Thiên hỷ, Thiên diêu, Hàm trì, Mộc dục, nếu gặp, thì dẽ bị tranh chấp đào hoa.


      Mệnh nữ sao Thất sát nhập vào cung Mệnh, Phu thê, hoặc Phúc đức thì nên tăng cường tu thân dưỡng tính, cần điều chỉnh tính cách bưởng bỉnh, thì sẽ có được sự trợ giúp nhất định đối với bản mệnh và vận thế.


      THẤT SÁT TỌA THỦ TÝ NGỌ


      Người mà sao Thất sát tọa thủ Tý Ngọ, là độc tọa thế vượng, tam phương tứ chính nếu chưa gặp tứ sát  và sao Hóa Kị, là mệnh cách "Thất sát triều đẩu", chủ về người có mưu lược, tài năng, có khả năng nhẫn nại tốt, sáng tạo có kế hoạch, có khả năng tư duy phân tích, dũng mãnh quyết đoán, cuộc đời nhiều biến đổi bôn ba vất vả, dễ gây thị phi. Những năm đầu thì thường vất vả, nhưng có thể khắc phục được khó khăn để đạt tới thành công.

      Sao Thất sát ở Tý Ngọ, nếu được sao Thiên hình, Kình dương hội chiếu, lại gặp Cát tinh, thì có thể trở thành bác sỹ ngoại khoa hoặc bác sỹ nha khoa. Nếu cung đối diện (Thiên di) có sao Vũ khúc tương phùng Hóa Lộc, lại đồng cung với sao Lộc tồn thì có thể làm chủ quản tài chính.
      Thất sát ở Tý Ngọ tọa mệnh thế vượng, cung đối diện (Thiên di) tất phải gặp sao Thiên phủ (Tý là nhập miếu, Ngọ là thế vượng) và sao Vũ khúc ở thế vượng, cung Tài bạch có sao Tham lang ở thế bình, cung Quan lộc có sao Phá quân ở thế vượng. Là người giao tiếp rộng, xuất ngoại có quý nhân phù trợ, di chuyển hoặc đổi ngành có nâng đỡ, biến động lớn, lao tâm lao lực, trải qua nhiều gian khổ, ý chí kiên cường, cuối cùng sẽ đạt được thành công, thích hợp phát triển ở khu vực thành phố; ham muốn kiếp tiền lớn, thường không chọn thủ đoản, có vận thiên tài, chi tiêu nhiều thường không biết tiết kiệm. Có thể là người đứng đầu của một loại kỹ năng, thường theo đuổi công việc có tính sáng tạo, tính mạo hiểm kể cả nguy hiểm, thường chủ quan dựa vào nghị lực để thực hiện đột phá.
      
      Vận mệnh Tuế quân năm Giáp: 
      Cung Quan lộc có sao Phá quân Hóa Quyền, cung Thiên di có sao Vũ khúc Hóa Khoa. Hoàn cảnh nhiều biến động, có thể làm tăng năng lực khai sáng của sao Phá quân trong Thiên la Địa võng, chủ động mưu cầu phát triển ở những mặt tốt, vượt qua trùng trùng khó khăn sau gian khổ sẽ có thành công; có danh vọng, xuất ngoại có quý nhân phù trợ, hiệu quả làm việc tốt, kiếm tiền ổn định, có cơ hội thăng tiến, tâm tính tương đối cởi mở. 
      Người sinh năm Giáp Thân, Giáp Tý, Giáp Thìn khi mệnh tọa ở Ngọ, hoặc người sinh năm Cân Dần, Canh Ngọ, Canh Tuất khi mệnh tọa ở Tý, có sao Lộc tồn và Thiên mã nhập cung Tài bạch, nếu không có Hỏa tinh, Linh tinh xung phá, đây là mệnh cách Lộc Mã giao trì, càng biến động thì càng sinh tài, cả đời có nhiều cơ hội đi du lịch. 
      Người có Tuế quân là Ất hoặc Kỷ có mệnh tọa ở Tý, hoặc người có Tuế quân là Tân có mệnh tọa ở Ngọ, thì hai sao Thiên khôi và Thiên việt lần lượt ở cung Mệnh và cung Tài bạch tam phương hội chiếu, đây là mệnh cách Thiên Ất củng mệnh chủ về văn chương cái thế, thường được quý nhân phù trợ.
      Người có Tuế quân là Bính hoặc Mậu có mệnh tọa ở Ngọ, sao Kình dương rơi vào cung Mệnh, đây là mệnh cách Mã đầu đới tiễn nếu không đoản mệnh thì bị hình thương, thường phải rời xa quê hương, phiêu bạt bất định, đời gặp nhiều nguy hiểm khó khăn. Đại hạn, tiểu hạn hoặc lưu niên gặp phải thì dễ gây ra thị phi, nếu tuổi trung niên gặp phải thì phải đặc biệt lưu ý đến sức khỏe.

Không có nhận xét nào: