Thiên
Cơ vốn có tính linh động, sau khi hóa Kị sức linh động giảm bớt, chủ về
gặp chướng ngại, hoặc vì một số nhân tố khách quan và chủ quan, dẫn đến
mất cơ hội tốt.
Thiên Cơ có tính chất kế hoạch, sau khi Hóa Kị sẽ biến thành kế hoạch sai lầm.
Thiên Cơ vốn có tính chất suy
nghĩ, sau khi Hóa Kị thì biến thành lo toan nghĩ ngợi, thậm chí thành ra
lo lắng. Vì vậy lúc Thiên Cơ hóa Kị ở cung Tật Ách, có đặc trưng mất
ngủ, suy nhược thần kinh, "Can vị bất hòa", "Tâm Thận bất giao", tình
hình nghiêm trọng là "trúng phong".
Lúc Thiên Cơ hóa Kị có Sát tinh
đồng độ, đặc biệt dễ mắc bệnh mang tính thần kinh, như co dật thần kinh
mặt, kinh phong, .v.v ...
Đối với nữ mệnh, Thiên Cơ hóa Kị phần nhiều chủ về vì tâm trạng xung động nhất thời mà xa chân lỡ bước.
Thiên Cơ hóa Kị còn biểu trưng
cho sự cố bị người ta phỉ báng, nói xấu, bêu rếu, hai bên công kích lẫn
nhau, cạnh tranh không lành mạnh, nếu mệnh tạo "hao thần tổn khí" quyết
đối phó, thì càng khiến sóng gió dễ nổi lên, tốt nhất nên "dĩ bất biến
ứng vạn biến" thì tự nhiên sóng yên biển lặng.
Thiên Cơ độc tọa hóa Kị ở hai
cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý thì bị Kình dương Đà la chiếu xạ, ở cung Ngọ
thì đồng độ với Kình dương), tứ chính đối cung là Cự Môn độc tọa, tam
phương tương hội với "Thiên đồng Thiên lương" và Thái Âm độc tọa hóa
Quyền.
Tổ hợp tinh hệ của hai cung
này, chủ về cách suy nghĩ của mệnh tạo khó giải quyết vấn đề, một sự cố
đơn giản có thể biến thành cục diện phức tạp, vì vậy mà kế hoạch sai
lầm. Do tính chất này, còn có thể mở rộng thành tình trạng "không có
việc gì đáng mà cứ phải bôn ba bận rộn", hoặc làm việc không có phương
pháp, thiếu mạch lạc, lớp lang.
Thương thường, khi Thiên Cơ hóa
Kị còn biểu trưng cho là "kinh sợ", hoặc bị uy hiếp, trong thương
trường thì đột nhiên bị cạnh tranh không lành mạnh, trong chính giới thì
hai bên công kích lẫn nhau.
Lúc có các sao Sát - Hình cùng
chiếu, chủ về điềm tượng di chứng của bệnh tật, như bán thân bất toại,
tứ chi tổn thương tàn tật. Ở cung Ngọ nặng hơn ở cung Tý.
Thiên Cơ độc tọa, Hóa Kị ở hai
cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Sửu thì gặp Lộc tồn), đối cung là Thiên Lương,
tam phương hội hợp với Thiên Đồng đọc tọa và Cự Môn độc tọa.
Do đối nhau với Thiên Lương,
nên tinh hệ này chủ về tình trạng gặp rắc rối, phiền phức, tuy nhiên
cuối cùng cũng hóa giải được, nhưng phải hao tổn tinh thần rất nhiều.
Liên quan đến sự cố phiền phức
đột nhiên xuất hiện, thường thường có liên quan đến việc vạch kế hoạch
sai lầm, vì vậy nội tâm càng nhiều lo lắng.
Tinh hệ này còn chủ về những
rắc rối khó xử trong tình cảm và hôn nhân. Nam mệnh thì người phối ngẫu
ưa lộ sự sắc sảo, nữ mệnh thì dễ bất hòa với chồng.
"Thiên cơ Thái âm" đồng độ ở
hai cung Dần hoặc Thân, Thiên cơ hóa Kị thì Thái âm hóa Quyền. Tham khảo
ở đoạn thuật "Thái âm hóa Quyền".
"Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai
cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu sẽ gặp Lộc tồn), tam phương hội hợp với
Thiên Đồng độc tọa, và mượn "Thái dương Thái âm" để nhập cung, trong đó
Thái Âm hóa Quyền còn Thái Dương hóa Khoa.
Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" đồng
độ vốn đã có tính chất "phá phách", khi Thiên Cơ hóa Kị sẽ làm mạnh thêm
tính chất "phá phách" này. Do đó chủ về không theo đuổi một ngành nghề
nào chuyên nhất, đứng núi này trông núi nọ, mệnh tạo thường cảm thấy
mình có tài mà không gặp thời.
Tinh hệ này còn chủ về trong
quan hệ giao tế, thường hay "nói năng lỡ lời", mà thường thường bị thất
thố vào những lúc quan trọng.
Do "Thiên cơ Cự môn" đồng cung, cho nên thích hợp làm công việc có tính chất "nhờ miệng lưỡi để kiếm tiền".
"Thiên cơ Thiên lương" đồng độ ở
hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên Cơ hóa Kị đồng độ với Đà la, hoặc bị
Kình dương Đà la hội chiếu, tam phương hội hợp với "Thiên đồng Thái âm"
mà Thái Âm hóa Quyền, và mượn "Thái dương Cự môn" để nhập cung mà Thái
Dương hóa Khoa.
Do có Thái Âm và Thái Dương hóa
thành sao Cát hội chiếu, các Sao hội hợp lại không phải là "vô lực" (Cơ
Lương ở cung Thìn thì càng tốt), cho nên tinh hệ này chủ về Thiên Lương
phải hao tổn sức lực để hóa giải những gì Thiên Cơ hóa Kị gây ra. Biểu
trưng cụ thể là có sắc thái "rời xa người thân", "lưu lạc", "tính hiếu
động trôi nổi", "do dự không quyết đoán", "xử sự sai lầm gây nên sóng
gió trắc trở", .v.v ...
Tinh hệ Cơ Lương vốn có năng
lực "dự cảm", nhưng sau khi Thiên Cơ hóa Kị, sẽ rất dễ vì quá "dự cảm"
mà biến thành quá lo lắng, dẫn đến quyết đoán sai lầm, nhất là ở cung
Tuất thì càng đúng.
Thiên Cơ độc tọa hóa Kị ở hai
cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là
Thái Âm hóa Quyền, tam phương hội hợp với "Thiên đồng Cự môn", và mượn
"Thái dương Thiên lương" nhập cung mà Thái Dương hóa Khoa.
Tinh hệ này thường chủ về "cơ
quan dùng lầm", bao gồm sự nghiệp và tình cảm. Cho nên hễ tâm bình
thường mà xử sự, thì không xảy ra sóng gió, trắc trở. Nếu tâm không bình
thường, thì sẽ nổi sóng gió ngoài dự liệu của mọi người.
Thiên Cơ độc tọa ở cung Hợi còn chủ về hư danh, về tình cảm rất dễ bị quấy nhiễu gây khó khăn.
Ngoài ra tinh hệ này còn chủ về
dễ bị uy hiếp, và bị áp lực vô hình. Nếu Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ
với Thiên Cơ hóa Kị, thì nên đề phòng lúc vãn niên sẽ bị "trúng phong".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét