Tính chất của Thiên Đồng cơ bản là
miêu tả về tâm trạng, cho nên lúc hóa thành sao Kị, ý nghĩa phổ biến là
"tâm trạng không ổn định", nếu Thiên đồng nhập miếu thì càng đúng, vì
vậy không phải là tai vạ.
Thiên Đồng chủ về tay trắng làm
nên, ý vị mở rộng là trung niên ắt sẽ có một khoảng thời gian gian khổ,
sau khi Thiên Đồng hóa Kị sẽ làm mạnh thêm ý vị này. Do đó, thường
thường biểu trưng cho tuổi trẻ có gia cảnh không tệ, đột nhiên mọi thứ
thay đổi, thế là phải sống độc lập, trải qua gian khổ của cuộc đời.
Thiên Đồng còn là sao "tình
cảm", sau khi Hóa Kị thường chủ về xảy ra tình huống rắc rối khó xử về
"tình cảm", có tình yêu không bình thường nên đau khổ vì tình, trong
tình cảnh này mệnh tạo thường thường khó tự động đứng lên, vì vậy mà ảnh
hưởng đến sự nghiệp.
Thiên Đồng hóa Kị ở cung lạc
hãm, đây là tâm trạng không yên, tinh thần xuống thấp (suy sụp), do đó
không có cách nào chuyên tâm phát triển sự nghiệp. Thường thường còn
biểu trưng cho "Lý tưởng vượt quá hiện thực", vì vậy mà đời người theo
đuổi "lý tưởng" rất lao khổ. Nếu có các sao Sát - Hình trùng trùng, thì
tâm lý bị mất quân bình, trở thành đa nghi mà chịu nhiều lo lắng.
Thiên Đồng hóa thành sao Kị
thường thường biểu trưng cho hội chứng "suy nhược thần kinh", cũng tức
là nói "âm hư", "khí hư" mà cổ nhân đã nói.
"Thiên đồng Thái âm" đồng độ ở
hai cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý còn gặp Lộc tồn), Thiên Đồng hóa Kị, tam
phương hội hợp với "Thiên cơ Thiên lương", và mượn "Thái dương Cự môn"
để nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc.
Thiên Đồng ở cung Tý là cung vượng, ưu hơn ở cung Ngọ, nên không sợ bị Hóa Kị quấy rối.
"Thiên đồng Thái âm" ở cung Ngọ
đều bị lạc hãm, khi Thiên Đồng hóa Kị thường biểu trưng cho lo nghĩ
nghi ngờ không có căn cứ, có thể dẫn đến hội chứng "suy nhược thần
kinh", lại còn tự chuốc lấy rắc rối về tình cảm, dẫn đến xảy ra những
phiền phức không cần thiết.
Nữ mệnh chủ về rất ưa phấn son, trang điểm, trải chuốt, nhưng phẩm chất không tốt.
Bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh
gặp tinh hệ này, đều biểu trưng cho kiếm tiền không thuận lợi, có lúc
còn vì phản ứng quá mẫn cảm mà dẫn đến những trắc trở không cần thiết,
nhưng tài lộc vẫn không lo bị thiếu.
"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở
hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì đồng độ với Đà la, ở cung Sửu thì
bị Kình dương Đà la hội chiếu), Thiên Đồng hóa Kị, tam phương hội hợp
với Thiên Cơ độc tọa, và "Thái dương Thiên lương" mà Thái Dương hóa Lộc.
Thiên Đồng ở hai cung này là
lạc hãm, lúc Hóa Kị rất dễ gây ra sóng gió, trắc trở, và rắc rối khó xử
trong tình cảm, do đó dẫn đến "điều tiếng thị phi". Còn chủ về dễ mắc
chứng viêm đau thần kinh, như thoái hóa đốt sống làm đau dây thần kinh.
Lúc có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ là dễ bị "trúng phong", thậm chí có
thể "bán thân bất toại".
Do có tinh hệ "Thái dương Thiên
lương" hội hợp, mà Thái Dương hóa Lộc, vì vậy cũng thích hợp nghiên cứu
học thuật. Thiên Đồng hóa Kị càng biểu trưng cho tâm tư lo nghĩ lúc
nghiên cứu, nhưng vẫn cần chú ý sức khỏe.
"Thiên đồng Thiên lương" đồng
độ ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên đồng hóa Kị ắt sẽ có Lộc tồn đồng
độ hoặc vây chiếu, tam phương hội hợp với thái âm độc tọa và Thiên Cơ
độc tọa.
Nếu không có Hỏa tinh, Linh
tinh, Địa không, Địa kiếp đồng độ, sẽ chủ về mệnh tạo tay trắng kiếm
tiền, nhưng phải hao tổn tinh thần. Nếu có Sát tinh, thì biểu trưng cho
tâm trạng không yên một nghề, không chuyên nhất theo một ngành nghề mà
thường thay đổi. Vì vậy mà ảnh hưởng đến sự ổn định của cuộc sống.
Đặc biệt là lúc có Địa không,
Địa kiếp đồng độ, không ai hiểu được tư tưởng của mệnh tạo, do đó xử sự
không hòa hợp. Thiên đồng ở cung Thân là cung vượng, tốt hơn ở cung Dần.
Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai
cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu thì đồng độ với Kình dương, ở cung Mão
thì bị Kinh dương Đà la chiếu xạ), đối cung là Thái Âm độc tọa, tam
phương hội hợp với Cự môn độc tọa và Thiên Cơ độc tọa.
Đây cũng là tinh hệ nhiều lo
nghĩ, nghi ngờ, nên cũng chủ về có khuynh hướng "suy nhược thần kinh".
Kiếm tiền phải hao tổn tinh thần, sự nghiệp nhiều biến động thay đổi, là
đặc điểm của tinh hệ này.
Ngoài ta, tinh hệ này còn dễ
chuốc "đố kị", "điều tiếng thị phi", thường thường là do mệnh tạo cố
tránh "điều tiếng thị phi" mà ra, đúng với câu nói "càng sợ thì càng gặp
nhiều". Nhưng Thiên Đồng ở cung Mão là nhập miếu, chỉ chủ về có tâm
trạng không ổn định, ưu hơn ở cung Dậu.
Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai
cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn được hội Lộc tồn), đối cung là Cự Môn,
tam phương hội hợp với Thiên Lương độc tọa và "Thái âm Thiên cơ"
Hai cung Thìn và Tuất là "Thiên
la Địa võng", lúc Thiên Đồng hóa Kị sẽ biến thành lực kích phát, do đó
thường là cách "phản bối", có thể không thành cách "phản bối" nhưng cũng
chủ về nhờ trải qua nhiều biến động thay đổi mà thành người hữu dụng.
Ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất,
biến động thay đổi trong đời người cũng ít hơn, biên độ biến động thay
đổi cũng nhỏ hơn. Hơn nữa thường lại được phát triển một cách thiết
thực, và dễ gặp cơ hội phát đạt đột ngột, có ý vị "vô tình cắm liễu,
liễu xanh um".
Ở cung Tuất còn chủ về các bệnh viêm đau thần kinh, thống phong, ở cung Thìn thì nhẹ hơn.
Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai
cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thiên Lương, tam phương hội hợp với
"Thiên cơ Cự môn", và mượn "Thái dương Thái âm" nhập cung mà Thái Dương
hóa Lộc. Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều gặp Kình dương hoặc Đà
la.
Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi là nhập miếu, Hóa Kị chỉ làm tăng "tâm trạng không ổn định".
Nhưng có lúc "tâm trạng không
ổn định" này, có thể chuyển biến thành bất mãn với người phối ngẫu. Nữ
mệnh thường dễ vì ham muốn hư vinh mà xảy ra sự cố, gây nên sóng gió
trắc trở trong đời sống tình cảm và hôn nhân. Nếu có các sao đào hoa
trùng trùng, thì nên kết hôn muộn, nếu không sau khi kết hôn dễ thay đổi
tình cảm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét