Khâm thiên giám

Tham lang tọa thủ Mệnh Thân



      Sao Tham lang chủ về vật dục lẫn sắc dục. Cho nên ưa Hóa Lộc, Hóa Quyền, không cần có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật cũng có thể đạt tới phú quý. Gặp Văn xương Văn khúc thì trái lại, còn biến thành vật dục có ý vị phấn son bề ngoài, còn có ý vị xảo trá lừa dối. Tức là nói, ham muốn vật chất lợi về tranh thủ một cách đường đường chính chính, mà không ưa dấu diếm, che lấp lỗi lầm.

      Ở phương diện sinh hoạt tinh thần, sao Tham lang thích sự vật thần bí, nhất là tôn giáo, vu thuật. Thời cổ đại, Tham lang thường có biểu hiện là tu tiên, luyện đan, thời hiện đại thì có sắc thái thần bí của tôn giáo.

      Do Tham lang có biểu hiện tranh thủ ham muốn vật chất, cho nên giỏi giao tế thù tạc, mà những cuộc giao tế này ắt sẽ thiên nặng về tửu sắc. Với khả năng giỏi xử lý quan hệ giao tế, nên thích kết giao bạn hữu, cuộc đời có nhiều sắc thái trong sinh hoạt xã giao. Có Liêm trinh và Văn xương Văn khúc hội hợp, có thể diễn hóa thành thi tửu cầm kỳ.

      Tham lang thủ mệnh không ưa Thất sát tọa thủ cung Thân, cũng không ưa Phá quân tọa thủ cung Thân. Nếu hội Sát tinh, chủ về trôi nổi, hiếu động, hiếu sắc, hoặc chủ về thú vui không lành mạnh.

      Tham lang đồng độ với Hỏa tinh hay Linh tinh, chủ về phát đột ngột. Thời cổ đại chỉ có Võ nghiệp mới dễ có công trạng một cách đột ngột, cho nên cổ nhân nói “Tham lang Hỏa tinh ở cung miếu vượng, danh chấn các nước” (Tham lang Hỏa tinh thừa vượng nhập miếu, danh chấn chư bang). Thời hiện đại, có thể luận đoán là phát một cách đột ngột.

      Tham lang Hóa Kị gặp Hỏa tinh hay Linh tinh đồng độ, chủ về bạo phát bạo bại. Nếu không có Hỏa tinh hay Linh tinh, thì đây là thành công bất ngờ, tức là câu cổ nhân nói “vô tình cắm liễu, liễu xanh um”.

      Tham lang nguyên cục Hóa Kị, niên hạn lưu diệu Hóa Lộc, cũng chủ về “vô tình cắm liễu, liễu xanh um”, là năm có thành công bất ngờ. Nếu Tham lang nguyên cục Hóa Lộc, niên hạn Tham lang Hóa Kị, chủ về năm hạn bị người ta chiếm đoạt lợi ích.

      Tham lang ở cung tứ Mộ là nhập miếu, cho nên cách “Hỏa Tham” hoặc “Linh Tham”, đều lấy trường hợp ở cung tứ Mộ là tốt. Trường hợp Tham lang độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cung đối diện có Vũ khúc, và trường hợp “Vũ khúc Tham lang” đồng độ ở Sửu hoặc ở Mùi, đều là thượng cách. Các trường hợp còn lại là kế đó.

      Tham lang ưa Hỏa tinh và Linh tinh, lại không sợ sao Không, cũng không sợ Thiên hình; khi Tham lang có sao Không và Thiên hình cùng bay đến, lại chủ về “đoan chính”. Gặp Thiên hình là chủ về tự kềm chế, định lệ “phép hội sao” không nên gặp thêm gặp Địa kiếp, nếu Địa kiếp cùng bay tới, lập tức trắc trở sẽ ập tới ngay. Tham lang gặp Địa không Địa kiếp, chỉ cần không thấy Kình dương Đà la, hoặc Hóa Kị, là chủ về có khí chất nghệ thuật, có thể làm những công việc có liên quan đến nghệ thuật, như thiết kế, hội họa, nhiếp ảnh, …

      Trong các Sát tinh, Tham lang không ưa Kình dương Đà la, khi hội sao gặp Tham lang đồng độ với Kình dương Đà la, tính tự chủ “đoan chính” sẽ biến thành buông thả, tà dâm, tửu sắc. Tham lang ở Tý thì đồng cung với Kình dương, ở Hợi thì đồng cung với Đà la, đây gọi là “Phiếm thủy đào hoa”. Tham lang ở Dần thì đồng cung với Đà la, gọi là “Phong lưu thái trượng”, đều chủ về vì sắc mà thất bại. Hai cách này nếu hội thêm Thiên hình, lúc này Thiên hình không còn chủ về tự kềm chế, mà biến thành chủ về tai họa lao ngục.

      Cách “Hỏa Tham” hay “Linh Tham”, cũng không ưa gặp Kình dương Đà la, gặp Kình Đà là “phá cục”. Dù lúc này Tham lang có Hóa Lộc, cũng chủ về sau khi hoạch phát lập tức hoạch phá. Nếu lại gặp các sao Phụ Tá, sẽ chủ về trải qua nguy cơ, khốn khó mới lập được công danh. Cho dù không thấy Kình dương và Đà la, sau khi phát cũng nên cẩn thận, nếu không vẫn khó tránh khỏi thất bại một cách nhanh chóng.

      Tham lang độc tọa ở Thân, là nơi chỗ bị kềm chế. Nếu có các sao Sát Kị, và các sao Phụ Tá tụ tập lẫn lộn, chủ về lúc đầu nghèo khó, trải qua nguy cơ mới phát đột ngột, nhưng sau khi phát đạt, thì vì thú vui chơi không lành mạnh mà phá tán, thất bại. Nếu chỉ gặp Sát tinh, chủ về tâm tính tà ám, lợi dụng quan hệ giao tế mưu tính thủ đoạn. Nếu chỉ gặp Cát tinh, có thể phú quý, nhưng luôn phải chú ý duy trì thành tựu đã đạt được. Cách “Hỏa Tham”, “Linh Tham” ở Thân, tính chất bạo phát bạo bại càng nặng.

      Tham lang độc tọa ở Dần, không có Kình dương và Thiên hình hội chiếu (nếu có sẽ chủ về hình phạt), thì lại không thành cách “Phong lưu thái trượng”, nếu có Cát tinh, có thể thành quý cục, nhưng cuộc đời gặp sóng gió không ít; có Sát tinh thì sự nghiệp hưng thịnh, nhưng kiện tụng hay phạm pháp cũng theo đó mà đến. Khi Tham lang Hóa Kị chủ về làm các ngành về công nghệ, khoa học kỹ thuật để mưu sinh.

      Tham lang độc tọa ở Tý, nếu không nhập cách “Phiếm thủy đào hoa”, mà có Cát tinh, hoặc có Thiên hình tương chế, cũng là phú cục, chủ về sau trung niên sẽ phát đạt.

      Tham lang độc tọa ở Ngọ, là cách “Mộc hỏa thông minh”, không có các sao Sát Kị, mà gặp Cát tinh, đây là cách cự phú, hoặc là nhân vật quan trọng trong giới kinh tế tài chính. Gặp Sát tinh thì bình thường, chỉ tiểu phú, nhưng tuyệt đối không nên đầu cơ.

      Tham lang độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, sau trung niên mới có thể phát đạt. Nếu có các sao Sát Kị cùng đến, chủ về lúc trẻ nhiều nạn tai, bệnh tật. Khác với hệ “Vũ khúc Tham lang” ở Sửu Mùi (tham khảo thêm Vũ khúc thủ mệnh).

      Người sinh năm Thân Tý Thìn có Tham lang thủ mệnh ở Tý; người sinh năm Dần Ngọ Tuất có Tham lang thủ mệnh ở Ngọ; người sinh năm Tị Dậu Sửu có “Vũ khúc Tham lang” thủ mệnh ở Sửu; người sinh năm Hợi Mão Mùi có “Tử vi Tham lang” thủ mệnh Mão, thảy, đều chủ về tham lợi nhỏ, có thị hiếu thú vui không lành mạnh, cổ nhân cho rằng đây là mệnh cách “tranh đoạt, cướp đoạt, trộm cắp”. Thực ra, đây là do tính ham muốn vật chất quá nặng. Nếu có các sao đào hoa bay đến, thì dục tình cũng sâu. Ưa gặp Cát tinh, tính chất không lành sẽ giảm nhẹ, cũng ưa gặp Thiên hình và sao Không, gặp Thiên hình thì có thể kềm chế, gặp sao Không chủ về “thanh bạch”.

      Mệnh cách có Tham lang tọa thủ, thì các cung hạn Thất sát, Phá quân, Thái âm, Thái dương, Cự môn, Tử vi, là những đại vận hay lưu niên có tính then chốt.

      Cách “Hỏa Tham”, “Linh Tham” phải đề phòng lưu niên có Hóa Kị trùng điệp xung khởi tai họa. Nếu lại gặp lưu Sát tinh xung khởi, đây là điềm ứng nghiệm suy sụp nhanh chóng, nếu không cũng là năm dẫn đến suy sụp nhanh chóng.

      Tham lang rất kị cung hạn “Thái dương Cự môn” giao thoa với Hóa Kị của niên vận, chủ về nạn tai hay kiện tụng.

1 nhận xét: