BIỆT CÁCH
Tham lang độc tọa ở Tý Ngọ
Tham lang độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ,
cung đối diện có Tử vi độc tọa, cung tam phương là Phá quân độc tọa
và Thất sát độc tọa.
Muốn đánh giá bản chất của Tham
lang trong trường hợp này, cần phân biệt dục vọng của nó mạnh hay
yếu. Lúc dục vọng mạnh, lại cần phân biệt, là mạnh về “ham muốn vật chất” hay mạnh về “ham muốn dục tình”.
Tham lang ở cung vượng, nếu là người
sinh năm Thân Tý Thìn có Tham lang ở Tý; người sinh năm Dần Ngọ Tuất có
Tham lang ở Ngọ, là kết cấu sao có dục vọng mạnh. Ngược lại, người
sinh năm Thân Tý Thìn có Tham lang ở Ngọ; người sinh năm Dần Ngọ Tuất
có Tham lang ở Tý, là kết cấu sao có dục vọng yếu.
Tham lang Hóa Quyền, làm tăng dục
vọng, có thiên hướng ham muốn vật chất.
Tham lang Hóa Lộc, gặp Phụ diệu sẽ
làm tăng “ham muốn vật chất”, gặp các Tạp diệu như Phi liêm, Lực sỹ,
Tướng tinh, Trưởng sinh, Đế vượng, cũng làm tăng “ham muốn vật chất”;
gặp Tá diệu sẽ làm tăng “ham muốn dục tình” (lúc này Lộc Mã giao trì cũng chủ về “ham
muốn dục tình”), gặp các sao đào hoa tụ tập sẽ kích thích “ham muốn
dục tình” tăng nặng.
Tham lang Hóa Kị, làm giảm dục
vọng, lúc gặp Linh tinh, Đà la, và sao Không trong Tạp diệu, cùng với
các Tạp diệu khác như Thiên khốc, Thiên hư, Cô thần, Quả tú, Âm sát,
Hoa cái, Đại hao, Tức thần, Nguyệt sát, Quán sách, thì dục vọng
càng giảm thấp, thậm chí có thể biến thành “sợ cạnh tranh”, một khi
gặp phải trở lực liền rút lui.
Cung đối diện có Tử vi được cách “bách
quan triều củng”, chủ về làm tăng dục vọng của Tham lang, trường hợp
Tử vi thuộc loại “tại dã cô quân” chủ về làm giảm dục vọng của Tham
lang.
Thất sát ở cung tam phương có Cát
hóa hội hợp, chủ về làm mạnh thêm dục vọng của Tham lang, Gặp các
sao Sát Kị Hình Hao đến hội hợp, chủ về làm giảm dục vọng của Tham
lang.
Đời người không nên có dục vọng quá
cao, cũng không nên có dục vọng quá thấp. Vì vậy, lúc Tham lang ở Tý
hoặc ở Ngọ, cần phải chú ý, ưa được Tham lang có tính chất trung
hòa, cần chú ý tính chất “trung hòa” đó là gì ?
Ví dụ Tham lang có dục vọng thấp
đối nhau với Tử vi thuộc loại “bách quan triều củng”, có thể thấy
về cơ bản là “trung hòa”, nhưng giả dụ có Kình dương đồng độ cung
Tham lang, lại hội thêm các sao đào hoa, thì loại “trung hòa” này có
biểu hiện ham muốn dục tình nặng và ham muốn vật chất yếu, cho nên
cuộc đời chủ về tự tìm lấy buồn phiền, vì tình mà khổ, về sự
nghiệp thì một việc cũng không thành.
Tham lang thuộc loại “phiếm thủy đào
hoa” là kết cấu có “ham muốn dục tình” mạnh. Lúc này không nên gặp
các sao chủ về dục tình (như Văn xương, Văn khúc, hay các sao đào hoa)
đến hội hợp, cũng không nên đến các đại hạn hoặc lưu niên có các
đào hoa trung trùng.
Tham lang thuộc loại “mộc hỏa thông
minh” là kết cấu sao “ham muốn vật chất” mạnh, lại gặp thêm các sao
ham muốn vật chất, có thể sự nghiệp tài lộc hanh thông, nhưng sẽ cảm
thấy tinh thần “trống rỗng”.
Tham lang thuộc loại “tâm chí bạc
nhược” chưa chắc không cát tường, nếu không chìm đắm trong thú vui
không lành mạnh, khi đến đại vận tích cực, vẫn có thể phấn khởi
làm việc. Cho nên Tham lang thuộc loại “tâm chí bạc nhược” ưa đến các
đại vận hoặc lưu niên có hệ “Vũ khúc Thiên tướng” thuộc cách “Tài
ấm giáp ấn” (1), gặp cung “Thái dương Thiên lương” có Hóa Khoa (2), đến
cung có Thất sát Hóa Lộc Hóa Quyền (3), đến cung có Phá quân Hóa
Lộc hoặc Hóa Quyền (4), đến cung “Liêm trinh Thiên phủ” được cát hóa
(5), thảy đều chủ về gặp cảnh ngộ tốt,
khiến cho cách nhìn đời người biến thành tích cực, nhờ vậy mà có
thành tựu.
Tham lang thuộc loại “ham muốn vật
chất” nặng, tuy nhân sinh quan tích cực, nhưng lại biến thành người
bất chấp thủ đoạn, hoặc chìm đắm trong việc đầu cơ mạo hiểm, cờ
bạc. Vì vậy, không ưa vào các vận hạn có sắc thái ham muốn vật
chất quá nặng, như gặp hệ “Thiên đồng Cự môn” mà Cự môn Hóa Lộc (1),
đến cung “Thái dương Thiên lương” có Thái dương Hóa Quyền (2), đến cung
Thiên cơ Hóa Lộc, không ưa Thiên cơ có Thái âm Hóa Kị xung hội (3), nếu
không, đời người tuy tích cực, nhưng cảnh ngộ chưa chắc đã như ý, hơn
nữa, dễ khiến tinh thần trở nên “trống rỗng”.
Tóm lại, dục vọng quý ở chỗ vừa
phải, quá yếu mà gặp hạn yếu, chủ về cô độc nghèo hèn hoặc tàn
tật; quá mạnh mà lại gặp hạn mạnh, chủ về chìm đắm trong thú vui
không lành mạnh, dẫn đến phạm sai lầm suốt đời.
Đàm luận về Tử Vi Đẩu Số, luận
thật tính chất của tinh hệ và sự ưa ghét của các tổ hợp tính hệ
giao nhau, đều lấy cung Mệnh làm chủ, bởi vì cung Mệnh là đầu mối
thể hiện tính chất của tinh hệ. Thực ra, mang các tính chất cơ bản
đó suy rộng ra, thì có thể luận đoán tính chất đủ 12 cung.
Ví dụ như trong cung Huynh đệ, Tham
lang nhập vào cung này, thuộc loại ham muốn dục vọng quá nặng, thì
dễ giao du với bạn bè tửu sắc, bạn bè nhiều nhưng không có ai tri
kỷ, hơn nữa dễ xảy ra chuyện tranh quyền đoạt lợi. Nếu tâm chí của
Tham lang quá lạnh nhạt ham muốn, thậm chí hèn yếu, chủ về duyên
phận với anh em hay bạn bè đều mỏng, về sự nghiệp cũng không đủ
duyên với người. Lúc đến 12 cung hạn, xem từng tinh hệ ở cung Huynh đệ
của đại vận hoặc lưu niên, liền biết có sự cạnh tranh ngoài dự liệu
hay không, hoặc nhờ cung hạn có tính chất “điều hòa” mà cải thiện
được quan hệ giao tế.
Lại ví dụ như, xét cung Phu thê, ở
cung này Tham lang thuộc loại ham muốn vật chất quá nặng, tất người
bạn đời nặng ham muốn vật chất. Nếu thuộc loại ham muốn dục tình
thì tình yêu, hôn nhân đều có điềm tráo trở. Nếu Tham lang thủ cung
thuộc loại “tâm chí bạc nhược” thờ ơ tiêu cực, thì cảnh ngộ người
bạn đời không được tốt, hoặc vì hoàn cảnh khách quan sinh lý bệnh
tật … làm ảnh hưởng đến sinh hoạt hôn nhân, khiến không hòa hợp hạnh
phúc.
Lại ví dụ, xét cung Tật ách, Tham
lang thuộc loại ham muốn dục vọng nặng, chủ về mắc các bệnh thuộc thực chứng, tức cơ quan có bệnh
mang tính thực tế, như viêm tử cung, viêm gan, viêm dạ dày… Nếu Tham
lang thủ cung thuộc loại “tâm chí bạc nhược” biểu hiện lãnh đạm thờ
ơ tiêu cực, chủ về mắc bệnh thuộc hư
chứng, như tử cung rối loạn nội tiết tố, lạnh tử cung, gan rối
loạn nhiễm sắc thể, dạ dày hư hàn, chứng viêm đau dây thần kinh (như
đau bụng kinh, bạch đới…).
Trên là đơn cử những ví dụ thuộc
nguyên tắc thông thường, chỉ cần nắm vững bản chất của các tinh hệ,
vận dụng vào thực tiễn luận đoán vận hạn, có thể suy ra những tình
huống hoặc sự cố, có nguyên nhân xảy ra từ bản chất biến hóa của
các sao và ảnh hưởng của các tinh hệ ở các cung hạn. Kinh nghiệm dần
dần sẽ được tích lũy, luận đoán càng thêm chính xác.
Đơn cử ví dụ: nữ
mệnh có Tham lang ở cung Phê (thê).
Nữ mệnh tuổi Kỷ, có Tham lang Hóa
Quyền tọa thủ cung Phu ở Ngọ, đây là kết cấu sao thiên nặng về “ham muốn
dục tình” mà ít “ham muốn vật chất”.
Vào đại vận Nhâm Tuất, cung Phu có
hệ “Vũ khúc Thiên tướng” ở Thân địa, đại vận là Nhâm nên Vũ khúc
Hóa Kị, chủ về vợ chồng gặp sự cố không may. Cung Phúc đức của đại
vận ở Tý, có Tử vi độc tọa đối diện với Tham lang thuộc loại thiên
nặng về “ham muốn dục tình”, Tử vi lại đồng độ với Kình dương của
đại vận, thêm vào đó cung tam phương còn có Vũ khúc Hóa Kị. Nếu ở
Tý hoặc ở Ngọ có các sao đào hoa như Thiên diêu, Mộc dục, Hàm trì,
Đại hao, thì chủ về sinh hoạt hôn nhân không như ý mà dẫn đến ngoại
tình.
Đến lưu niên Đinh Dậu, cung Phu gặp
hệ “Thiên đồng Cự môn” ở Mùi, niên hạn là Đinh nên Cự môn Hóa Kị
đồng độ với Kình dương của lưu niên, nên về phương diện tình cảm xảy
ra tình cảnh u ám, trở thành nguy cơ cho tình cảm vợ chồng trong lưu niên
này, rất khó tránh mắc phải sai lầm.
Chú ý, luận đoán này hoàn toàn
đặt trên nền tảng bản chất của Tham lang ở cung Phu thê, nếu không có
tính chất này, thì khó vào đại vận và lưu niên cùng một dạng, cũng
không xảy ra chuyện “thay lòng đổi dạ”. Do đó có thể biết, phép luận
đoán của phái Trung Châu chú trọng việc nhận thức bản chất các sao
trong 12 cung, lấy đó làm cơ sở quan trọng của việc luận đoán.
Tham lang và Vũ khúc đồng độ ở Sửu Mùi
Tham lang và Vũ khúc đồng độ ở Sửu
hoặc ở Mùi, cung đối diện Vô chính diệu, cung tam phương có hệ “Liêm
trinh Phá quân” và hệ “Tử vi Thất sát” hội hợp.
Nhóm tinh hệ này có tính chất cực
kỳ mạnh mẽ, ham muốn dục vọng quyền lực rất nặng, hệ “Vũ khúc Tham
lang” chỉ không mạnh bằng “Tử vi Thất sát” và “Liêm trinh Phá quân” ở
hai cung tam phương.
Muốn luận đoán đặc tính của hệ
“Vũ khúc Tham lang” ở hai cung Sửu hoặc Mùi, cần phân biệt chúng
thuộc loại “dục vọng” hay “tham vọng”.
Hệ “Vũ khúc Tham lang” là tinh hệ
có nhân sinh quan rất tích cực mà có tiết chế. “Dục vọng” thì ai
cũng có, vì không gây tổn thương, họa hại cho người khác, nên có thể
nói “dục vọng” trở thành lực đốc thúc cơ bản của người đời, có
khác với “tham vọng”. “Tham vọng” thì thường “tổn nhân lợi kỷ” (bớt của người để lợi cho mình).
Ví dụ như mẫu người chính khách khi có “tham vọng”, nhiều lúc có
thể hy sinh lợi ích của xã hội, còn đối với thương nhân khi có “tham
vọng”, thì có thể lũng loạn thị trường, khiến cho người tiêu dùng
bị thiệt hại.
Hệ “Vũ khúc Tham lang” có Hỏa tinh,
đây là chính cách “Hỏa Tham”. Tổ hợp này không đại biểu cho “tham
vọng”, mà chỉ thuộc loại “dục vọng”. Bởi với cái mà chúng có được
chỉ là “tiền bất ngờ”, “tiền bất ngờ” khác với “hoạch
tài”, “hoạch tài” là lợi ích có được một cách bất ngờ vốn hợp
với quy phạm đạo đức, nên căn bản không
dính dáng gì tới “tham vọng”.
Hệ “Vũ khúc Tham lang” cần phải có
sao Lộc mới thành kết cấu tốt, cách “Hỏa Tham, “Linh Tham” cũng cần
Tham lang Hóa Lộc, chủ về có tiền của bất ngờ và dồi dào, do đó ưa
Vũ khúc Hóa Lộc hoặc Tham lang Hóa Lộc, trong đó trường hợp Tham lang
Hóa Lộc là “dục vọng” khá mạnh.
Nếu hội Liêm trinh Hóa Lộc, chủ về
kiếm được tiền một cách thuận lợi, không liên quan đến “dục vọng”,
nhưng khi Phá quân Hóa Lộc thì không những mệnh cách thuộc loại “dục
vọng”, mà còn biến thành “tham vọng”.
Phá quân Hóa Lộc không ưa gặp Kình
dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp. Nếu gặp bốn sát tinh này, đồng
thời có Hóa Lộc đồng độ với hệ “Liêm trinh Phá quân”, hoặc đồng độ
với hệ “Vũ khúc Tham lang” của cung mệnh, thì đều biến thành tính
chất “tham vọng”, mà không đơn thuần chỉ là tính chất “dục vọng”.
Hệ “Vũ khúc Tham lang” không ưa Hóa
Kị hội hợp, cho nên khi Tham lang Hóa Kị, Vũ khúc Hóa Kị, Liêm trinh
Hóa Kị, đều là nhân tố chủ yếu cấu tạo mệnh cách thành tính “tham
vọng”.
Tham lang Hóa Kị không ưa có Hỏa tinh
Linh tinh, nếu gặp thì có tính “tham vọng”. Tham lang Hóa Kị đồng độ
với Kình dương cũng chủ về tính “tham vọng”. Nếu Kình dương lại có
Linh tinh cùng bay đến, thì tính “tham vọng” càng lớn (phép phối sao “Hỏa
tinh Kình dương” hợp lực thành tính rất thích cạnh tranh).
Khi Vũ khúc Hóa Kị thì Tử vi đồng
thời Hóa Quyền, nếu Vũ khúc không có Phụ diệu cát và Tá diệu cát
nâng đỡ, mà có sao Không đồng độ, thì đây thuộc loại “chí lớn mà
tài không đủ”, “ưa lộng quyền mà không có thực tài”, “giả uy không có
thực quyền”, thảy đều là tính chất “tham vọng” mà thôi.
Hệ “Liêm trinh Phá quân” khi Liêm trinh
Hóa Kị, nếu có Kình dương đồng độ, lại gặp Thiên hư, Âm sát, đây là
mô hình loại người “khuất chí để cầu tài”, nhưng nội tâm thường mặc
cảm tự ti, hay buồn rầu lo lắng, thường vì vậy mà tính chất “tham
vọng” càng lớn.
Hệ “Vũ khúc Tham lang” có Hóa Quyền
mà không có Hóa Lộc, cũng là kết cấu cơ bản của tính chất “tham vọng”.
Khi Tham lang Hóa Quyền thì Vũ khúc ắt Hóa Lộc, do đó trở thành
tính chất “dục vọng”. Nếu Vũ khúc Hóa Quyền là tính chất “tham
vọng”, gặp Sát tinh cùng bay đến thì càng đúng. Cho nên hệ “Vũ khúc
Tham lang” mà thành cách “Hỏa Tham” có Vũ khúc Hóa Quyền, tuy có thể
được tiền bất ngờ mà chưa chắc thỏa mãn được nguyện vọng. Đây là
điều cổ nhân thường nói “lòng tham vô đáy”.
Hệ “Vũ khúc Tham lang” có tính chất
“tham vọng”, nên gặp Văn xương, Văn khúc, Thiên tài, Long trì, Phượng
các, thì mới tương xứng, tính chất “tham vọng” của chúng sẽ có cơ
sở bắt nguồn từ thực tế, nếu không, chỉ làm tăng tham vọng thêm hư
ảo, không thiết thực mà gây buồn phiền.
Cung hạn “Thái dương Cự môn” đồng
độ, hệ “Vũ khúc Tham lang” thuộc loại “dục vọng” ưa đến, khi Thái
dương Hóa Kị gây bất lợi cho cha nhưng vẫn chủ về vận hưng thịnh,
được hưng thịnh là do được cha hoặc người trên trọng dụng, dừu dắt
từng bước đi đến thành tựu. Cho nên vận hạn này rất ưa có Thiên khôi,
Thiên việt, hoặc lưu Khôi lưu Việt bay đến.
Hệ “Vũ khúc Tham lang” thuộc loại
“tham vọng” đến cung hạn “Thái dương Cự môn”, ắt có nhiều “biến động
thay đổi”, nhưng biến động thay đổi này thường mất công vô ích, chỉ
làm tăng gian khổ, là niên hạn gặp tranh giành tranh chấp. Nếu Cự môn
nguyên cục Hóa Quyền hay Hóa Lộc, vận trình này càng nhiều bất ổn.
Ở lưu niên, bất kể hệ “Vũ khúc Tham
lang” có tính “tham vọng” hay có tính “dục vọng”, cũng đều ưa được
Cát hóa và có Cát tinh hội hợp, mà không ưa các gặp các sao Sát Kị
Hình Hao tụ tập. Đây cũng là nguyên tắc thông thường.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa, hệ
“Vũ khúc Tham lang” thuộc loại “dục vọng” không ưa đến. Trừ trường
hợp đặc biệt có lực của Cát hóa và các Cát tinh hội hợp nâng đỡ,
nếu không sẽ là vận trình bị đình trệ. Khi Thiên tướng thuộc cách “Hình kị giáp ấn”, mệnh cách “dục
vọng” mà đến, chủ về tính tình chuyển hóa thành “thờ ơ và tiêu
cực”, kiểu “thờ ơ và tiêu cực” này lại thường là cơ sở để hậu vận
được phát đạt, cho dù Thiên tướng thuộc loại “Tài ấm giáp ấn”, thì loại mệnh cách “dục vọng” này đến,
cũng chỉ lợi về phòng thủ mà thôi. Trong đại vận hay niên hạn này,
những ý niệm bất mãn về hiện trạng, cũng như có ý mưu toan thay đổi
cảnh ngộ, chỉ mang lại kết quả thêm rắc rối thị phi.
Hệ “Vũ khúc Tham lang” thuộc loại
“tham vọng” cũng không ưa đến cung hạn Thiên tướng bị cách “Hình kị giáp ấn”, chủ về chuốc
tai họa. Nếu lại có các sao đào hoa trùng trùng, lại chủ về cờ
bạc, đầu cơ hoặc nữ sắc mà gây ra họa. Cung hạn Thiên tướng được
cách “Tài ấm giáp ấn”, thì
mệnh cách “tham vọng” cũng không nên sinh lòng thay đổi, nếu thay đổi,
sẽ phụ lòng người quan tâm ủng hộ và đề bạt mình.
Cung hạn “Thiên cơ Thiên lương” đồng
độ, hệ “Vũ khúc Tham lang” thuộc loại “dục vọng” đến, chủ về gặp
nhiều cơ hội, ắt có được thuận lợi, thừa thời cơ mà hưng phát. Còn
hệ “Vũ khúc Tham lang” thuộc loại “tham vọng” đến, thì lại chủ về
gặp nhiều bất ổn. Cung hạn này rất ưa Thiên cơ Hóa Lộc hay Hóa
Quyền, mà không ưa Thiên lương Hóa Lộc hay Hóa Khoa, khi Thiên lương được
Cát hóa, phần nhiều chỉ mang lại sự quấy rối, trắc trở, khiến ảnh
hưởng đến hậu vận . Hệ “Vũ khúc Tham lang” thuộc loại “tham vọng”
cũng không ưa Thiên lương Hóa Lộc hay Hóa Khoa, chủ về vất vả, trắc
trở càng lớn, lại thêm cái sở đắc thường thường chỉ là hư danh. Đối
với lưu niên thì không có những tính chất như đã thuật này, nhưng
cũng không nên nghe theo lời khuyên của người, mà thay đổi hay cải cách
sự nghiệp. Nếu cung hạn có sao Sát Hình tụ tập, mà Thiên lương Hóa
Lộc, mệnh cách “tham vọng” đến, thường sẽ vì tiền mà phải trải qua
nhiều cơn sóng gió.
Cung hạn “Tử vi Thất sát” đồng độ,
nếu sao quyền lực quá nặng, hệ “Vũ khúc Tham lang” thuộc loại “tham
vọng” không nên đến, chủ về bị trắc trở nghiêm trọng. Nhưng hệ “Vũ
khúc Tham lang” thuộc loại “dục vọng” thì ưa đến, chủ về vận hạn
đạt được sở nguyện. Cung hạn này ưa có Lộc tồn đồng độ hoặc hội
chiếu, nếu không gặp Sát tinh, dù là loại mệnh cách “tham vọng” có
đến, cũng là vận thế đột nhiên hưng phát. Ở lưu niên cũng vậy.
Nếu cung hạn “Tử vi Thất sat” có
các sao Sát Kị Hình tụ tập, hệ “Vũ khúc Tham lang” thuộc loại “tham
vọng” đến, nhất thiết không được lộng quyền, vì lộng quyền sẽ không
làm tròn chức trách, mà dẫn đến thị phi cực lớn. Hệ “Tử vi Thất
sát” ở Tị, thường ứng vào năm Dậu hay năm Sửu, còn hệ “Tử vi Thất
sát” ở Hợi, thường ứng vào năm Mão hay năm Mùi.
Cung hạn “Liêm trinh Phá quân” đồng
độ, là đại vận hoặc lưu niên, mà hệ “Vũ khúc Tham lang” thuộc loại
“dục vọng” ưa đến, nếu cung hạn lại có thêm Cát tinh, thì càng thêm
có lợi cho dù là lưu niên cũng không có hại, sự nghiệp thăng tiến
đột ngột. Đối với mệnh cách “tham vọng” đến, trừ khi tam phương tứ
chính toàn là Cát tinh và được Cát hóa, không có các sao Sát Kị
xung phá, mới chủ về thuận lợi như ý, nếu không, ắt chủ về sự việc
đang cầu toàn thì nảy sinh khiếm khuyết, muốn tiến thì thành lùi,
đang vui lại hóa ra buồn.
Cung hạn “Liêm trinh Phá quân” đối
với hệ “Vũ khúc Tham lang” mà nói, thường là năm quan hệ nhân tế thay
đổi rất nhanh, cho nên nhất thiết không được vì “tham vọng” mà hy sinh
lợi ích của bạn bè hay người khác, nếu không, sẽ vì vậy mà phá
tán, thất bại. Cần xem các tổ hợp sao hậu vận để định phương cách
vận dụng đạo “xu cát tị hung”.
Cung hạn Thiên phủ độc tọa, chỉ cần
không phải là “kho lộ”, “kho trống”, hệ “Vũ khúc Tham lang” có tính
chất “tham vọng” hay “dục vọng” cũng đều ưa đến, bất kể là lưu niên
hay đại vận, đều chủ về thuận lợi toại ý, nhưng không phát lên một
cách đột ngột. Vì vậy mà mệnh cách “tham vọng” thường dễ bất mãn
với hiện trạng, muốn tìm cách đột phá. Lúc này cần xem tới cung an
Thiên tướng, nếu có Sát tinh đồng độ với Thiên tướng, thì không nên
vọng động, gặp Hung tinh thì thiếu trợ lực, vì vậy mà phạm sai lầm.
Thiên phủ là “kho lộ”, “kho trống”,
là vận trình thất bại lớn của hệ “Vũ khúc Tham lang” thuộc loại
“tham vọng”, bất kể là đại vận hay lưu niên đều như vậy. Lúc này cần
phải phòng thủ, mà không thể mưu toan tạo dựng cái mới, rất cần
thái độ sống chân thành đối với mọi người, mới có thể tránh được
thất bại. Không ai chết vì pháp luật, mà thường chết vì “đường ăn
lẽ ở”.
Cung hạn “Thiên đồng Thái âm” đồng
độ, ở lưu niên thường ưu hơn ở đại vận. Nếu cung hạn này có Cát tinh
và được Cát hóa, là năm hệ “Vũ khúc Tham lang” ưa đến. Nếu cung hạn
gặp sao hóa thành sao Kị, mệnh cách “dục vọng” đến sẽ chủ về trắc
trở, mọi việc đều trái với nguyện vọng. Loại mệnh cách “tham vọng”
đến, thì càng dễ bị xu thế biến động thay đổi của xã hội dẫn dụ,
khiến đầu tư bị tổn thất.
Ở đại vận, tính chất còn nghiêm
trọng hơn nhiều. Dù cung hạn có Cát tinh, cũng không nên quá ham muốn
an nhàn. Loại mệnh cách “tham vọng” đến, càng phải đề phòng vì thú
vui, những sở thích cá nhân, mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Khi cung
hạn có các sao Sát Kị, còn chủ về tổn thất nghiêm trọng, rất cần
hành sự cẩn thận, ở vào tình cảnh này, nên trợ giúp người khác
hoặc lùi một bước làm thuê cho người khác, hoặc làm “phó” giúp việc
cho “trưởng”, không nên tự sáng lập sự nghiệp để bảo tồn thực lực.
Đơn cử ví dụ: hệ
“Vũ khúc Tham lang” ở cung Sự nghiệp.
Cung mệnh là hệ “Liêm trinh Phá quân”
ở Dậu, người sinh năm Đinh, có Thiên việt ở Hợi gặp Đà la hội chiếu;
cung Sự nghiệp là “Vũ khúc Tham lang” ở Sửu, bị Kình dương Đà la
cùng chiếu xạ, không có Cát hóa, cũng không có sao Cát hữu lực, cho nên “quan cách” thuộc
loại “tham vọng”.
Lúc này, cung Sự nghiệp của đại
vận là Thiên tướng được cách “Tài ấm giáp ấn”, lại được lưu Lộc ở
cung đối diện, nên có thể giữ ổn định. Nguyên cục “Liêm trinh Phá
quân” có “mệnh cách” thuộc loại “tư lợi”, trong khi “quan cách” thuộc
loại “tham vọng”, thế là mệnh tạo đã lợi dụng quan hệ của Cty để
làm ăn riêng, lúc đầu coi như thuận lợi (ứng nghiệm của cách “Tài ấm
giáp ấn”).
Đến năm Giáp Tý, cung mệnh của lưu
niên là hệ “Thiên đồng Thái âm”, hội Thái dương Hóa Kị và Cự môn Hóa
Kị, cung Sự nghiệp là hệ “Thiên cơ Thiên lương” cũng hội Thái dương
Hóa Kị và Cự môn Hóa Kị, mà Hóa Kị bị lưu Kình lưu Đà của lưu niên
giáp cung, thêm vào đó là Thiên hình ở cung Sự nghiệp, gây bất mãn ở
nơi làm việc, bị đuổi việc mà còn bị kiện cáo, cảnh ngộ thật là
khốn khổ (Chú: Thái dương ở đại vận Hóa Quyền, ở lưu niên thì Thái
dương Hóa Kị. Đây là ứng nghiệm lạm quyền mà chuốc kị).
Tham lang độc tọa ở Dần Thân
Tham lang độc tọa ở Dần hoặc ở
Thân, cung đối diện có Liêm trinh độc tọa, cung tam hợp là Phá quân
độc tọa và Thất sát độc tọa.
Tính chất của Tham lang ở Dần hoặc
ở Thân trái ngược nhau, thông thường Tham lang ở Dần chủ về hưng phát
lúc còn trẻ, đến trung niên hay vãn niên thường chủ về phá tán, thất
bại. Tham lang ở Thân thì gặp bất lợi khi còn trẻ, nhưng đến trung
niên thì phát đạt, nhưng sau khi phát đạt cũng cần phải đề phòng phá
tán, thất bại. Tức là nói, Tham lang ở Dần chủ về phát sớm phá
sớm, Tham lang ở Thân chủ về phát chậm phá chậm.
Tuy nói “phát” và “phá”, nhưng có
thể vận dụng đạo “xu cát tị hung”, bản thân chúng cũng có mức độ
khác nhau. Vì vậy cần nghiên cứu và thảo luận kỹ lương thêm về tính
chất của Tham lang ở Dần và ở Thân.
Tham lang ở Dần hoặc ở Thân thuần túy
chủ về “dục vọng”, nhưng ở Dần thì có khuynh hướng “sắc dục” (hay
tình cảm), còn ở Thân có khuynh hướng “vật dục” (ham muốn vật chất),
đây thuộc về tính chất cơ bản.
Tham lang thuộc loại “vật dục” mạnh,
đời người có lực đốc thúc đấu chí rất mạnh. Tham lang thuộc loại
“sắc dục” mạnh, chủ về nhuyễn hóa thành giao tế thù tạc trong sự
nghiệp, hoặc theo những ngành nghề có tính chất “thanh sắc”, nên cũng
không phải là xấu.
Khi Tham lang Hóa Lộc, chưa thể kết
luận trực tiếp thuộc về “tình cảm” hay thuộc về “vật chất”, xem các
sao hội hợp để định. Có Đà la đồng cung sẽ tăng khuynh hướng “tình
cảm”, nên mới có cách “Phong lưu thái trượng”. Có Hỏa tinh đồng cung,
sẽ làm tăng khuynh hướng “vật chất”, nên mới có cách “Hỏa Tham”.
Văn xương, Văn khúc, Long trì, Phượng
các, và các sao đào hoa đều làm tăng khuynh hướng “tình cảm”; Thiên
khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật và Hóa Quyền, thì có khuynh hướng
làm tăng “vật chất” cũng như “vật dục”. Tổ
hợp tinh hệ này, Tham lang không có Hóa Khoa, là do cổ nhân có thâm ý.
Cho nên, Tham lang cũng không nên đến các cung hạn có sao Hóa Khoa, nếu
đến, chủ về vì xuất đầu lộ diện mà chuốc lấy thất bại, hoặc xảy
ra sự kiện mất danh sự mà thành “nổi tiếng”. Đây cũng là nguyên tắc
thông thường khi luận đoán mà thôi. Nói một cách cụ thể hơn, nếu Tham
lang đến cung hạn có Văn khúc Hóa Khoa, chủ về vì sắc mà bị tổn
thất, đến cung hạn “Tử vi Thiên tướng” mà Tử vi Hóa Khoa lại có lưu
Hóa Khoa xung khởi, thì càng không nên xuất đầu lộ diện, nếu không,
ắt sẽ chuốc thất bại, danh dự phải chịu nhục không đúng với bản
chất của mệnh tạo.
Tham lang đồng độ với sao Không hoặc
Hóa Kị, thông thường chủ về giảm bớt “dục vọng” của nó, hoặc lợi
về nhuyễn hóa “dục vọng”, để biết nhu cầu nào là cần thiết trước
mắt, mà hình thành kế hoạch trình tự trước sau. Có điều, cần phải
có Cát tinh hội hợp, thì mới đủ lực để nhuyễn hóa.
Phá quân hóa làm sao Quyền chủ về
làm tăng khuynh hướng “vật dục”. Lúc Phá quân Hóa Quyền thì Tham lang
cũng sẽ Hóa Kị, đây là điềm tượng đời người cố gắng phấn đấu, nên
khuynh hướng “vật dục” thường mạnh hơn khuynh hướng “sắc dục”.
Cung hạn “Thiên cơ Cự môn” đồng độ,
thông thường Tham lang không nên đến. Chỉ khi nào Cự môn Hóa Lộc, gặp
Cát tinh thì mới có lợi, nhưng họa phúc vẫn khó lường, vận tuy thấy
cát nhưng vẫn tiềm ẩn hung họa, phải xem xét kỹ hậu vận để nắm bắt
được tiên cơ mà vận dụng đạo “xu cát tị hung”.
Tham lang thiên nặng về “vật dục”,
khi đi đến niên hạn “Thiên cơ Cự môn”, cần phải thận trọng thủ thành.
Nếu gặp các sao Sát Kị, đặc biệt không được rơi vào lưới tình, nếu
không sự nghiệp sẽ lung lay nền tảng.
Cung hạn “Tử vi Thiên tướng” đồng
độ, lợi cho Tham lang thiên nặng về “tình cảm” đến, mà bất lợi cho
Tham lang thiên nặng về “vật dục” đến. Thông thường, trường hợp mệnh
cách “tình cảm” chủ về hưng phát, còn trường hợp mệnh cách “vật
dục” thường tự mình chủ động gây ra trở ngại xui xẻo.
Hệ “Tử vi Thiên tướng” đồng độ, nếu
Thiên tướng bị cách “Hình kị giáp ấn”, lại không có cách “Bách quan
triều củng”, hoặc còn có lưu Sát, Hóa Kị xung hội, loại Tham lang
thiên nặng về “tình cảm” đến cung hạn này, nếu quyến luyến chuyện
trăng gió, ắt sự nghiệp sẽ bị phá tán, thất bại. Còn loại Tham lang
thiên nặng về “vật dục” đến cung hạn này, nếu không cân nhắc xem xét
kỹ tình thế khách quan, mà cứ mưu toan phát triển, sẽ gây ra thị phi
oán trách.
Thông thường, Tham lang đến cung hạn
“Tử vi Thiên tướng”, không nên mưu toan tiến thủ quá đáng, và cũng
không nên chìm đắm trong thú vui sở thích cá nhân.
Cung hạn Thiên lương độc tọa, khá
bất lợi đối với loại Tham lang thiên nặng về “tình cảm’ đến, ngoại
trừ trường hợp có thể dùng hành động hậu thiên để nhuyễn hóa tính
chất (tính chất gì ? kiểm !), nếu không sẽ gặp tai nạn hoặc bị trở
ngại xui xẻo. Nhất là lúc Thái âm Hóa Kị, hoặc Thiên cơ Hóa Kị hội
chiếu, còn cần phải đề phòng sự cố trong các mối quan hệ công việc
(lúc này cần phải xem xét kỹ cung Huynh đệ và cung Giao hữu, có lúc
cũng cần phải xem thêm cung Tử nữ).
Tham lang thiên nặng về “vật dục” mà
đến cung hạn Thiên lương độc tọa, nếu gặp Sát tinh, chủ về đường đời
gặp nhiều hiểm trở, gập gềnh, phải đợi đến lưu niên cát lợi mới có
thể mưu toan tiến thủ.
Cung hạn Thất sát độc tọa, là vận
hạn mang tính tiến thủ mà Tham lang thiên nặng “vật dục” ưa đến. Nếu
Thất sát còn được Cát hóa và có Cát tinh, chủ về trong 10 năm cục
diện sẽ thay đổi hoàn toàn theo hướng tốt.
Tham lang thiên nặng “tình cảm” mà
đến cung hạn Thất sát độc tọa, thì không phải là vận tốt, nếu được
Cát hóa và có Cát tinh, cũng chỉ chủ về thuận lợi toạn ý, không
được đùng đùng sửa đổi loạn xạ một cách đột ngột. Dù ở lưu niên,
tam phương tứ chính cũng phải thuần Cát tinh, thì mới có thể mưu toan
thay đổi.
Cung hạn Liêm trinh độc tọa, có tính
chất đào hoa, Tham lang thiên nặng “sắc dục” đến, đại vận hoặc lưu
niên này là cực kỳ bất lợi, thường vì theo đuổi sắc tình mà dẫn
đến bại hoại thất bại. Dù ở lưu niên cũng không thích hợp với Tham
lang thiên nặng “tình cảm”, nhưng tính chất khuynh bại sẽ nhẹ hơn.
Ở lưu niên ưa Liêm trinh Hóa Lộc, xung
hội Tham lang Hóa Lộc, hoặc Liêm trinh có sao Lộc trùng điệp, hay Tham
lang có sao Lộc trùng điệp, đây là vận thế tiền tài và chuyện vui
đến liên tiếp. Nếu trong thời kỳ này có thể nỗ lực, thì không những
chỉ giới hạn trong năm đó. Tham lang thiên nặng về “vật dục” mà đến cung
hạn này thì càng đúng.
Cung hạn Phá quân độc tọa, là đại
vận hoặc lưu niên Tham lang thiên nặng “vật dục” ưa đến, dù không được
Cát hóa và có các Cát tinh, cũng vẫn có thể thay đổi hoàn cảnh.
Nhưng Tham lang thiên nặng “tình cảm” mà đến thì gặp bất lợi, thường
vì ỷ vào người khác mà bị tổn thất hay gặp trắc trở. Cung hạn Phá
quân độc tọa mà gặp các sao Sát Kị, ở lưu niên lại chủ về có quan
hệ yêu đương với người đã có gia thất, nếu không cuộc đời sẽ có
biến động, thay đổi quan trọng.
Phá quân Hóa Lộc ở đại vận, chủ
về sự nghiệp có chuyển biến quan trọng theo hướng tốt, cho nên Tham
lang thiên nặng “vật dục” ưa đến.
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, Thiên
đồng hóa Cát lại gặp Cát tinh, là vận thế đắc ý của Tham lang thiên
nặng “vật dục”, thường tạo dựng sự nghiệp trong vận thế này. Dù ở
lưu niên cũng là vận tốt. Tham lang thiên nặng “tình cảm” đến, dù gặp
Cát tinh cũng không được thuần cát lợi, cần đề phòng vì say sưa đắc
ý mà phá tán thất bại, ở lưu niên thì tính chất này nhẹ hơn.
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, nếu có
các sao Sát Kị Hình tụ tập, nhất là không có lưu Đà đồng độ với
Thiên đồng, thì Tham lang thiên nặng “vật dục” phải trải qua phá tán
thất bại trước, rồi mới hưng phát. Đối với Tham lang thiên nặng “tình
cảm” dễ vì thích sống an nhàn, ngại va chạm mà chuốc phá tán thất
bại.
Cung hạn “Vũ khúc Thiên phủ” đồng
độ, nếu có sao Lộc, là vận thế cát lợi của Tham lang thiên nặng
“vật dục”, đối với Tham lang thiên nặng “tình cảm” lại chủ về xảy ra
sóng gió trắc trở trong hôn nhân, vì vậy mà ảnh hưởng đến sự
nghiệp.
Nếu cung hạn “Vũ khúc Thiên phủ” có
các sao Sát Kị Hình đồng cung, đối với Tham lang thiên nặng “vật
dục”, chủ về vì tiền tài gây ra thị phi. Tham lang thiên nặng “tình
cảm”, chủ về tình mà chuốc họa. Ở lưu niên cũng có tính chất này,
không thể không cẩn thận đề phòng.
Cung hạn “Thái âm Thái dương” đồng
độ, bản thân tính chất hai sao này đã không hợp nhau (không hợp ở góc
độ nào ?). Tham lang thiên nặng “vật dục” đến đại vận hoặc lưu niên
này, chủ về gặp trắc trở, đối với Tham lang thiên nặng “tình cảm”
mà đến thì có lợi hơn, vì không gặp sóng gió trắc trở xảy ra.
Cung hạn “Thái âm Thái dương” khi
Thái âm Hóa Kị, hoặc Thái dương Hóa Kị, đối với Tham lang thiên nặng
“tình cảm” mà đến thì lại bất lợi, ắt sẽ bị đả kích nghiêm trọng.
Nhất là đối với nữ mệnh phải đề phòng thất thân với người xấu ở
vận hạn này. Cung hạn “Thái âm Thái dương” nếu có Cát hóa và các
Cát tinh hội hợp, Tham lang thuộc tính chất nào cũng là vận tốt,
riêng đối với Tham lang thiên nặng “tình cảm” thì có nhiều lợi thế
hơn, chủ về hưởng thụ an nhàn, còn Tham lang thiên nặng “vật dục” chủ
về bôn ba.
Đơn cử ví dụ: Tham
lang ở cung Phu thê.
Cung mệnh là hệ “Tử vi Thiên tướng”
ở Tuất, người sinh năm Bính có Kình Đà hội chiếu mệnh viên. Phu thê
ở Thân địa, cung đối diện có Liêm trinh Hóa Kị, hơi có tính chất dào
hoa nhưng không nặng.
Căn cứ vào tính chất của tinh hệ
Tham lang ở cung Phu thê của đại vận là Thiên lương ở Hợi, có Cự môn
hóa thành sao Lộc (cát hóa), Thái dương Hóa Quyền, lại hội với Thiên
đồng nguyên cục Hóa Lộc. Hơn nữa, cát hóa ở cung Thê này lại tương
đồng với ở cung Mệnh.
Cho nên, vào đại vận thì kết hôn,
sau khi kết hôn vợ chồng cùng làm ăn lập nên sự nghiệp. Giai đoạn kết
hợp này, sắc thái “vật dục” nặng hơn sắc thái “tình cảm”. Cảnh ngộ
này có liên quan với tính chất “Tử vi Thiên tướng” ở cung mệnh nguyên
cục.
Tử vi và Tham lang đồng độ ở Mão Dậu
Tham lang và Tử vi đồng độ ở Mão
hoặc ở Dậu, cung đối diện không có chủ tinh, cung tam phương là hệ
“Liêm trinh Thất sát” và hệ “Vũ khúc Phá quân” hội hợp. Cung đối
diện không có chủ tinh là cấu tạo ở ngoài không có cái làm chủ.
Hệ “Tử vi Tham lang” là tinh hệ thuần
“dục vọng”. Bởi vì không những bản thân “Tử vi Tham lang” có tính
chất “dục vọng”, mà các hệ sao hội hợp như “Vũ khúc Phá quân” cũng
mang sắc thái ham muốn vật chất nặng, còn hệ “Liêm trinh Thất sát”
trong một số tình hình thì thiên về “tình cảm” hơn.
Do đó, muốn luận đoán bản chất của
tinh hệ này, cần phải phân biệt xem nó thuộc loại “ham muốn vật chất” hay “ham
muốn dục tình”. Cổ nhân nói “Đào hoa phạm chủ là rất dâm” (Đào hoa phạm chủ vi chí dâm) tức
nhấn mạnh đặc tính “ham muốn dục tình” của chúng. Đây là cơ sở để
căn cứ và nhận biết một cách cụ thể sự ảnh hưởng của cung tam
phương đến hệ “Tử vi Tham lang”, theo xu thế thuận hay xu thế nghịch.
Nếu đại vận đi thuận mà theo xu thế nghịch, hoặc đại vận đi nghịch
mà theo xu thế thuận, thì có thể biết là bại vận.
Tronh tình hình hệ “Tử vi Tham lang”
đồng độ với Thiên hình hoặc sao Không, chủ về có thể tự kềm chế,
nhưng người tự kềm chế thường chỉ kềm chế “ham muốn dục tình”, còn
người có tính chất “ham muốn vật chất” mạnh mẽ vẫn không thay đổi.
Bản chất của nhóm tinh hệ “Tử vi
Tham lang” khác với hệ Tử vi độc tọa ở Tý Ngọ, khi Tử vi độc tọa
thì đối diện với Tham lang, các sao hội hợp dùng Thiên tướng thay cho
Phá quân, dùng Thiên phủ thay cho Thất sát, vì vậy tinh hệ có tính
chất nhu hòa hơn, đồng thời sắc thái của Tử vi độc tọa được biểu
hiện đầy đủ. Ví dụ như nói Tử vi độc tọa không ưa thích trang điểm
cho bản thân, cho nên tính cách nhiều độc đoán, nhưng hệ “Tử vi Tham
lang” lại có ý vị của phấn son, thiên nặng trang điểm hình thức bề
ngoài, có ham muốn lãnh đạo mà lại khéo ăn khéo ở theo lề nếp cũ.
Hơn nữa, đặc tính của cung đối diện vô chủ thường đối lập mâu thuẫn
với cái ở trong, ở trong cũng khó định hướng làm chủ thì nói gì
đến cái ở ngoài.
Lấy “ham muốn dục tình” mà nói,
người Tử vi độc tọa có lòng tự tôn rất mạnh, trừ trường hợp người
khác giới biểu lộ ám thị (mỹ nhân kế) chứ không bao giờ theo đuổi
mục tiêu một cách mù quáng. Còn hệ “Tử vi Tham lang” thì lại khá
chủ động, thậm chí không sợ cạnh tranh.
Do đó, Tử vi độc tọa và “Tử vi tham
lang” đồng độ khác nhau rất nhiều. Trường hợp Tử vi độc tọa thì tài
lãnh đạo và lực quyết đoán rất mạnh; trường hợp “Tử vi Tham lang”
đồng độ thì tính chủ động khá mạnh. Có thể nói, nhìn từ góc độ
khác, nhân sinh quan của hệ “Tử vi Tham lang” thông thường là khá tích
cực, nếu mệnh có Sát tinh, thậm chí có thể vì mục đích mà không
từ thủ đoạn nào.
Hệ “Tử vi Tham lang” ưa được “bách
quan triều củng”. Như trường hợp Tử vi, vì không thể cấu tạo thành
cách “Phủ Tướng triều viên”, cho nên “khí tượng” quý phái sang trọng
có phần thấp nhỏ. Nếu có các Phụ diệu, Tá diệu, Tạp diệu, những Cát
tinh này chầu về, đương nhiên cũng có “khí tượng” không tầm thường.
Hệ “Tử vi Tham lang” có Hỏa tinh Linh
tinh đồng độ, cũng cấu tạo thành cách “Hỏa Tham”, Linh Tham”, nhưng
lực phát huy tác dụng không bằng hệ “Vũ khúc Tham lang” đồng độ với
Hỏa tinh, Linh tinh. Đây là do hành động và sự quyết đoán trong thực
tế không nhạy bén mau lẹ bằng Vũ khúc. Có thể nói, hệ “Tử vi Tham lang”
phải nhờ ở quyết sách, thì mới kiếm được tiền một cách bột phát,
bất ngờ.
Hệ “Tử vi Tham lang” không có Cát
tinh vậy chiếu, cũng có ý vị của một “cô quân”, nhưng lại khác với
“tại dã cô quân” cô lập của Tử vi độc tọa.
Lúc hệ “Tử vi Tham lang” có các sao
đào hoa hội hợp, đặc biệt là Thiên diêu đồng độ, đây là tổ hợp sao
rất nặng nề về tình dục, thêm Văn xương Văn khúc thì càng làm mạnh
thêm sắc thái “ham muốn dục tình”. Nếu Sát tinh lại đồng thời hội
hợp, thì mệnh tạo ắt là người phong lưu, tự đánh giá mình quá cao.
Tham lang Hóa Lộc làm tăng “ham muốn
vật chất”, có Vũ khúc Hóa Lộc hoặc Phá quân Hóa Lộc hội hợp, tính
“ham muốn vật chất” cũng mạnh, mà lại được thế chủ động hơn. Có
điều, lúc Liêm trinh Hóa Lộc, thì mệnh tạo thiên nặng sang sắc thái
“tình cảm”, xem trọng tình cảm nam nữ, và xem trọng tình cảm bạn
bè.
Khi Liêm trinh Hóa Kị, thì mệnh tạo
có một nửa khuynh hướng thiên về sự nghiệp, hơn nữa lại phải giao tế
thù tạc nhiều. Lúc này ảnh hưởng tới hệ “Tử vi Tham lang” mang theo
sắc thái “ham muốn vật chất”.
Cung hạn Cự môn độc tọa, hệ “Tử vi Tham
lang” đến, tâm trạng dễ bị trồi sụt thất thường. Hệ “Tử vi Tham lang”
thiên nặng về “ham muốn dục tình” ở trong đại vận hoặc lưu niên này,
thường thường xuất hiện tình huống bị quấy nhiễu, bị gây khó khăn
về tình cảm, nhất là lúc Cự môn Hóa Kị, hoặc lúc Thiên đồng của
cung đối diện Hóa Kị, mức độ bị quấy nhiễu, gây khó khăn sẽ nghiêm
trọng hơn.
Khi Cự môn Hóa Lộc, hệ “Tử vi Tham
lang” thiên nặng “ham muốn vật chất” đến, thì đây là vận tốt có tính
khai triển, nhưng cần phải có Thái dương của lưu niên Hóa Lộc xung
khởi vận thế (năm Giáp), thì mới mạng lại hiệu quả khi khai triển,
thực thi kế hoạch. Thông thường, cung hạn Cự môn độc tọa gây bất lợi
đối với hệ “Tử vi Tham lang”, chủ về gặp cảnh ngộ khốn khó, chỉ nên
xem là cơ sở của phát triển mà thôi.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa, nếu
có Phá quân Hóa Lộc ở cung đối diện, thì đây là đại vận hoặc lưu
niên tốt, mang tính triển khai kế hoạch dự định mới, nhưng không nên
một mình “đơn phương độc mã” tự triển khai sáng lập sự nghiệp, chỉ
nên đống vai trò trợ giúp người khác. Nếu ở địa vị “thủ lĩnh” hay
“lãnh đạo”, cũng không nên quá lộ sự sắc xảo, càng xuất đầu lộ
diện sự sắc xảo, thì càng gặp nhiều sóng gió trắc trở.
Thiên tướng thuộc loại “Tài ấm giáp
ấn”, đối với mệnh cách “ham muốn vật chất” là vận thế tốt, nhưng
không thể bộc lộ lòng ham muốn lãnh đạo, ham muốn chỉ huy. Nếu lại
gặp Sát tinh hội hợp, vì lòng ham muốn chỉ huy, lãnh đạo này, mà
xảy ra trắc trở rất lớn. Thiên Tướng thuộc cách “Hình kị giáp ấn”,
mệnh cách “ham muốn vật chất” đến, sẽ bị nhiều áp lực liên quan tới
người khác giới, sự việc thường trì trệ . Còn mệnh cách “ham muốn
dục tình” thường vì sắc mà gây họa, hoặc phải đau khổ vì tình.
Cung hạn Thiên lương độc tọa, nói chung
là bất lợi cho hệ “Tử vi Tham lang”. Nếu cung hạn có các sao Sát Kị
Hình Hao trùng trùng tụ tập, thậm chí bị họa về kiện tụng liên quan
đến pháp luật. Dù được Cát hóa và có Cát tinh, cũng không phải là vận
thế mở lòng mở dạ, sinh ra tâm trạng trì trệ, lười biếng, ảnh hưởng
đến tiến độ công việc.
Nếu hệ “Tử vi Tham lang” nguyên cục
hội hợp với Liêm trinh Hóa Kị, ở cung hạn Thiên lương độc tọa lại
gặp các sao Tài sao Lộc, thì nên dùng nghề nghiệp chuyên môn để kiếp
tiền. Nếu gặp thêm Sát tinh, thêm Thiên hình, Đại hao thì trái lại,
sẽ chủ về phá tài thất bại, nặng thì tranh chấp kiện tụng.
Cung hạn “Liêm trinh Thất sát” đồng
độ, có Lộc Quyền Khoa hội hợp, hoặc nguyên cục là cách “Hỏa Tham”,
“Linh Tham”, chỉ cần Sát tinh không nhiều mà không có lưu Sát tinh xung
hội, thì đây là vận thế phát một cách đột ngột, nhất là đối với
hệ “Tử vi Tham lang” mang sắc thái “ham muốn vật chất”; người mang sắc
thái “ham muốn dục tình” tuy cũng có lợi thế về tiền bạc sự
nghiệp, nhưng lại bị dục tình gây lụy, dẫn đến vận thế chao đảo.
Hệ “Tử vi Tham lang” tối kị đại vận
hoặc lưu niên “Liêm trinh Thất sát” mà có Liêm trinh Hóa Kị, chủ về
thất bại vô cớ. Nếu hội hợp với Vũ khúc Hóa Kị, thì nên kềm chế
ham muốn dục vọng để đề phòng sai lầm mà sinh ra thị phi.
Hệ “Tử vi Tham lang” thiên nặng “ham
muốn vật chất” gặp lưu niên Liêm trinh Hóa Kị bị Vũ khúc Hóa Kị xung
hội, nếu cung hạn còn bị các sao Sát Kị Hình xung hội, chỉ nên lui
về phòng thủ, và cần chú ý sức khỏe, người thiên nặng “ham muốn
dục tình” sẽ dễ vì sắc mà gây họa.
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, hệ “Tử
vi Tham lang” thiên nặng “ham muốn dục tình” mà đến, thường thường
cũng là năm bị quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Đối với hệ
“Tử vi Tham lang” thiên nặng “ham muốn vật chất”, thì đây là năm hưởng
thụ mang sắc thái đào hoa.
Chỉ trong tình hình cung hạn Thiên
đồng có Lộc Quyền Khoa hội hợp, mà còn gặp Cát tinh, hệ “Tử vi Tham
lang” bất kể là “ham muốn dục tình” hay “ham muốn vật chất”, đến cung
hạn này mới là vận hạn thu hoạch.
Cung hạn “Vũ khúc Phá quân” đồng
độ, trong tình hình thông thường, chỉ có lợi đối với hệ “Tử vi Tham
lang” thiên nặng về “ham muốn vật chất”, khi hệ “Vũ khúc Phá quân” có
Hóa Lộc Hóa Quyền thì càng đúng. Người thiên nặng “ham muốn dục
tình”, dù cung hạn “Vũ khúc Phá quân” có các sao Sát Hao tụ tập,
thường chủ về “đào hoa kiếp” gặp rắc rối về tình cảm, còn quan vận
và tài vận đều bình thường, thiên về xu hướng lấy an toàn làm trọng.
Nhưng khi Vũ khúc Hóa Kị, đây là năm thất bại về sự nghiệp và tiền
bạc đối với mệnh cách “ham muốn vật chất”, phép “xu cát tị hung” là
cần phải giữ cho thật vững, thuận theo hoàn cảnh, thì mới có thể
tránh được thất bại. Mệnh cách “ham muốn dục tình” thì phải biết
kềm chế tình cảm. Cả hai loại mệnh cách này, nguyên nhân đều từ dục
vọng bị trở ngại mà xảy ra tranh chấp lớn. Nếu Tham lang đồng thời
Hóa Kị, sẽ thất bại trong cuộc tranh chấp.
Cung hạn Thái dương độc tọa, trừ
trường hợp được Cát hóa và có các Cát tinh tụ tập, nếu không, đối
với hệ “Tử vi Tham lang” thì đây là vận xấu, đặc biệt dễ vì dục
tình mà gây ra thị phi, bị quấy nhiễu, bị gây khó khăn cản trở, thêm
các sao Sát Kị thì càng nặng, khi Thái dương lạc hãm thì càng nặng
thêm nữa.
Cung hạn Thiên phủ độc tọa, thông
thường có lợi cho hệ “Tử vi Tham lang” đến. Trừ trường hợp cung hạn
có các sao Sát Kị Hình hội hợp, phần nhiều đây là vận trình mang
tính phát triển. Thiên phủ ở Mùi, được Thái dương Thái âm thừa vượng
nhập miếu giáp cung, vào năm Tân thì Thái dương Hóa Quyền giáp mệnh,
đồng thời Cự môn Hóa Lộc giáp Thiên tướng của cung Sự nghiệp, bất
kể hệ “Tử vi Tham lang” thuộc tính chất nào, cũng đều xem đây là vận
trình có thu hoạch.
Cung hạn “Thiên cơ Thái âm” đồng độ,
xét về khí chất là bất lợi cho hệ “Tử vi Tham lang”, nếu các sao ở
cung hạn này gặp Cát tinh hay được Cát hóa thì còn được, nếu không,
đây là vận trình gặp nhiều tai nạn bệnh tật, hoặc tinh thần bị quấy
nhiễu, gây nhiều áp lực khó khăn.
Đơn cử ví dụ: hệ
“Tử vi Tham lang” ở cung Phúc đức.
Cung Mệnh là Thiên phủ độc tọa, cung
Phúc đức là hệ “Tử vi Tham lang” có Thiên diêu đồng độ. Người sinh năm
Đinh, sinh giờ Mão có Xương Khúc ở Mùi, nên cung Phúc đức hội hợp
với Xương khúc của cung Mùi, còn hội với Thiên khôi Thiên việt. Do
vậy, hệ “Tử vi Tham lang” này mang tính chất “ham muốn dục tình”.
Đến đại vận Quý Mão, cung mệnh của
đại hạn là hệ “Tử vi Tham lang”, cung Phúc đức của đại hạn là Thiên
tướng, bị “Hình kị giáp ấn”, nhưng lại được Phá quân Hóa Lộc xung
hội, vận trình này dễ bị dẫn dụ mà vọng động.
Cho nên, vào năm Giáp Tý, sáng lập
sự nghiệp thất bại, nguyên nhân chính dẫn đến thất bại, đều vì bị
ảnh hưởng của tình cảm. Biết rằng, cung Phúc đức hiển thị trạng
thái tinh thần của mệnh tạo, có thể lấy đó để dự báo xu thế cát
hung của vận mệnh.
Tham lang độc tọa ở Thìn Tuất
Tham lang độc tọa ở Thìn hoặc ở
Tuất, cung đối diện là Vũ khúc độc tọa, cung tam phương là Thất sát
độc tọa và Phá quân độc tọa.
Tổ hợp sao toàn chính diệu, mang
sắc thái thuần túy, muốn luận đoán bản chất của nó, cần chú ý xem
Tham lang thuộc loại “kiên nhẫn chờ
thời” hay thuộc loại “hành động
hấp tấp” (dục tốc bất đạt).
Tham lang ở Thìn hoặc ở Tuất, là
rơi vào “Thiên la Địa võng”, rất ưa có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ để
thành cách, ắt sẽ có cơ hội phát đột ngột. Có điều, lúc cơ hội chưa
đến mà “hành động hấp tấp”, dục tốc bất đạt, phần nhiều là thất
bại, làm ảnh hưởng đến cơ sở để phát đột ngột, sau khi phát đột ngột
cũng khá dễ suy sụp một cách nhanh chóng.
Tham lang ở Thìn hoặc ở Tuất, dù
hưng phát cũng chỉ là vận lúc trẻ. Vì vậy, Tham lang Hóa Lộc khi
chưa tới thời hưng phát, sẽ khiến mệnh tạo bị dục vọng thôi thúc,
dẫn đến tâm chí không ổn định mà hay vọng động, thường bộc lộ “hành
động hấp tấp” trong mọi việc, khi Tham lang Hóa Quyền thì có hành
động thiết thực hơn.
Tham lang rất ưa Phá quân Hóa Quyền
Hóa Lộc đến hội hợp, làm tăng tính “kiên nhẫn chờ thời” của người
Tham lang. Vũ khúc Hóa Quyền, tuy bất lợi cho vận lúc trẻ, nhưng cũng
làm tăng tính “kiên nhẫn chờ thời” của Tham lang.
Tham lang Hóa Kị, dễ vì việc không
như ý mà dẫn đến “hành động hấp tấp”, khác cơ bản với Tham lang Hóa
Lộc.
Vũ khúc Hóa Kị bất lợi cho vận
trình lúc trẻ và vận trình tráng niên, cần phải đến cung hạn thứ tư
mới chủ về chuyển biến hanh thông. Nếu Vũ khúc ở cung đối diện lại
thêm Sát tinh, sẽ khiến cho Tham lang trở thành mệnh cách “hành động
hấp tấp”. Khi cung đối diện Vũ khúc độc tọa không có Sát tinh, mà
gặp Cát tinh, sẽ khiến Tham lang thành mệnh cách “kiên nhẫn chờ thời”.
Nếu không gặp các sao Hóa Quyền,
Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Kị, mà gặp Sát tinh nặng, đặc biệt có Linh
tinh và Kình dương cùng hội hợp, thì khiến Tham lang thành loại “hành động hấp tấp”, gặp
Hỏa tinh và Đà la cùng hội hợp, cũng chủ về loại mệnh cách “hành
động hấp tấp”, dục tốc bất đạt. Gặp Hỏa tinh và Kình dương hoặc
Linh tinh và Đà la thì tốt hơn. Nhưng khi Linh tinh Đà la cùng hội hợp,
lại chủ về bề ngoài ung dung mà nội tâm lại nóng ruột, lo lắng.
Tham lang lại đến cung hạn Tham lang,
ưa hội hợp với Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa ở tam phương tứ chính,
cũng ưa bản thân Tham lang Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền.
Tính chất tổ hợp các sao ở cung
mệnh của đại vận và lưu niên chỉ đại biểu cho hoàn cảnh buộc phải
trải qua, mà không đại biểu cho bản chất của mệnh tạo, do đó ưa đến
vận trình Tham lang Hóa Lộc, không chủ về mệnh tạo là người có
“hành động hấp tấp”.
Tham lang thuộc loại “hành động hấp
tấp” không nên đến cung hạn Phá quân độc tọa, dù Phá quân Hóa Lộc
thì cũng phải đề phòng, vì “hành động hấp tấp” mà phạm sai lầm.
Nếu có Thiên khôi Thiên việt hội hợp thì lại trở thành cát lợi, cơ
hội không tìm mà tự đến, cho dù “hành động hấp tấp” cũng không sao.
Tham lang thuộc loại “kiên nhẫn chờ
thời” thích hợp đến cung hạn Phá quân Hóa Quyền, chủ về phải gánh
vác trách nhiệm quá mức, hoặc làm kiêm thêm nghề mới, nhờ vậy mà
phát đạt. Tham lang thuộc loại “hành động hấp tấp” thì trái lại, dễ
đánh mất cơ hội. Nếu Phá quân Hóa Quyền đồng thời gặp Sát tinh,
mệnh cách “hành đồng hấp tấp” đến cung hạn này, phần nhiều khó
chịu đựng nỗi gian khổ chướng ngại ban đầu.
Cung hạn Thất sát độc tọa, mệnh
cách “hành động hấp tấp” khá thích hợp đến cung hạn này. Nếu cung
hạn Thất sát độc tọa có các sao Sát Hình nặng, thì phải đề phòng
vì lộng quyền mà gây ra tai họa. Lúc Phá quân Hóa Lộc đến hội hợp,
Tham lang ắt cũng đồng thời Hóa Kị đến hội hợp; lúc này Thất sát
thủ cung mệnh của lưu niên, rất kị có Vũ khúc Hóa Kị của lưu niên
đến xung đại vận hay xung Tham lang Hóa Kị nguyên cục, hoặc Liêm trinh
Hóa Kị của lưu niên đến xung đại vận hoặc xung Phá quân Hóa Quyền
(hay hóa Lộc) nguyên cục. Trường hợp trước là chủ về đột ngột phát
sinh trở ngại, cạnh tranh, dẫn đến phá tài, trường hợp sau là chủ
về vì gặp may mà dẫn đến trở ngại lớn, quan hệ giao tế thay đổi,
tình cảm đổ vỡ, thu nhập tăng thì đồng thời chi tiêu cũng lớn. Nếu
lại gặp các sao đào hoa và các sao Sát Hình, thì vì hoàn cảnh
thuận lợi mà dẫn đến “đào hoa kiếp”.
Trên là tình hình đại khái khi Tham
lang thủ mệnh đến các vận hạn Thất sát, Phá quân, Tham lang.
Cung hạn Cự môn độc tọa, Tham lang
thuộc loại “hành động hấp tấp” không nên đến, cho dù Cự môn Hóa
Quyền hay Hóa Lộc, thường dễ xảy ra nhiều sự cố, kị nhất là rơi
vào tình trạng đau khổ vì tình, gây ảnh hưởng đến sự tiến thủ. Khi
Cự môn Hóa Kị, lại chủ về tự chuốc lấy buồn phiền về tình cảm,
mà không thể dứt ra được.
Tham lang thuộc loại “kiên nhẫn chờ
thời” ưa đến cung hạn Cự môn độc tọa, sau khi trải qua một khoảng
thời gian khốn khó thì có thể biến thành hanh thông. Có điều, nếu ở
lưu niên có Thái dương hay Thái âm đồng thời Hóa Kị đến hội hợp, ắt
sẽ có trở ngại nghiêm trọng, nhiều chuyện thị phi đột ngột xảy ra,
gây nên phá tài.
Cung hạn “Liêm trinh Thiên tướng” đồng
độ, Tham lang thuộc loại “kiên nhẫn chờ thời” đến, chủ về rất nên
hợp tác với người khác để sáng lập sự nghiệp. Tham lang thuộc loại
“hành động hấp tấp” thì không nên đến, cho dù gặp Liêm trinh Hóa Lộc
ở cung mệnh của lưu niên, cũng chỉ là vẻ vang nhất thời, say sưa đắc
ý sẽ sinh thất bại. Nếu Liêm trinh Hóa Kị, thì bất kể Tham lang
thuộc tính chất nào đến cung hạn này, cũng đều nên xem là trải
nghiệm của đời người, qua giai đoạn này sẽ được ngươi ta trọng dụng,
có thể dẫn đến hanh thông. Cho nên, Tham lang thuộc loại “hành động
hấp tấp” càng nên nhẫn nại.
Cung hạn Thiên lương độc tọa, rất
ngại Thái dương Hóa Kị đến hội hợp, Tham lang đến cung hạn này, chủ
về bị áp lực hoặc uy hiếp về tâm lý, Thái âm Hóa Kị mà đến hội
hợp thì chủ về, vì kế hoạch sai lầm mà phá tán.
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, nếu có
Cát tinh, thường thường là vận trình thu hoạch và mở rộng, Tham lang
thuộc loại “kiên nhẫn chờ thời” rất thích hợp đến. Nếu Tham lang
thuộc loại “hành động hấp tấp” thì cần phải xem tổ hợp các sao của
hai năm trước, xem có phá tán thất bại hay không mà định. Cung hạn
Thiên đồng gặp Thái âm Hóa Kị hoặc Thiên cơ Hóa Kị thì không nên đầu
cơ.
Cung hạn Vũ khúc độc tọa, thông
thường Tham lang ưa đến, lưu niên mà gặp nó, dù không được Cát hóa và
gặp Cát tinh, cũng chủ về hành động. Chỉ ngại Vũ khúc Hóa Kị, dù
Tham lang thuộc loại “kiên nhẫn chờ thời” có đến, cũng không nên có
những hành động quá đáng. Nếu Tham lang thuộc loại “hành động hấp
tấp” đến, thì chớ nên hành động mà nên phòng thủ là tốt nhất.
Cung hạn Vũ khúc độc tọa hội hợp
với các sao Sát Kị Hình, bất kể Tham lang thuộc tính chất nào đến cung
hạn này, đều chủ về bị tai họa bất ngờ hoặc sự cố liên quan đến
chảy máu.
Năm Kỷ, lưu niên Vũ khúc Hóa Lộc,
Tham lang có thể xem đây là Tài vận. Vào đại vận Vũ khúc Hóa Lộc, do vì Tham lang có đặc tính lúc vãn niên không ưa
gặp sao Lộc, cho nên cần phải đề phòng sức khỏe có vấn đề.
Thái dương độc tọa thủ cung mệnh
của lưu niên, thừa vượng nhập miếu, Tham lang ưa đến cung hạn này, chỉ
khi Thái dương Hóa Kị thì không nên. Nếu Tham lang thuộc loại “hành
động hấp tấp” đến, thì sẽ gặp nhiều sự đổ vỡ, thị phi, còn Tham
lang thuộc loại “kiên nhẫn chờ thời” thì nên tạo danh tiếng trong thời
điểm này.
Thái dương độc tọa thủ cung mệnh
của lưu niên lại lạc hãm, Tham lang đến cung hạn này sẽ mạnh thêm
tính chất thị phi, oán trách. Nhưng mệnh cách “hành động hấp tấp” lúc
này nên rút lui, chủ về vài năm sau sẽ dẫn đến vận thế phát đột
ngột.
Cung hạn Thiên cơ độc tọa, đối với
Tham lang là một lần trải nghiệm, Tham lang thuộc loại “kiễn nhẫn chờ
thời” cũng sẽ gặp cạnh tranh một cách đột ngột. Nếu Thiên cơ Hóa
Kị, áp lực càng nặng. Thiên cơ nguyên cục Hóa Kị, lại xung hội Cự
môn Hóa Kị của đại vận hoặc lưu niên, Sát tinh nặng thì nên đề phòng
bệnh gan, Sát tinh nhẹ thì cũng chủ về uất chí.
Cung hạn “Tử vi Thiên phủ” đồng độ,
đối với Tham lang thuộc loại “kiễn nhẫn chờ thời”, đây là đại vận
mang tính sáng tạo; được Thiên phủ Hóa Khoa, hoặc Vũ khúc Hóa Quyền,
hoặc Lộc tồn đồng độ hay vây chiếu, đều là vận thế hưng phát hanh
thông, Liêm trinh Hóa Lộc đến hội hợp cũng thêm cát lợi, nhưng chỉ nên
làm việc hưởng lương hoặc hợp tác với người khác, không nên phát
triển một mình. Tham lang thuộc loại “hành động hấp tấp” gặp cung
hạn này cũng cát, nhưng rất kị bộc lộ tính cách lộng quyền, nếu
không, sẽ phải nhận hậu quả xấu nghiêm trọng.
Đơn cử ví dụ: Tham
lang ở cung Tài bạch.
Thất sát thủ mệnh ở Thân địa, cung
Tài bạch có Tham lang ở Thìn gặp Linh tinh đồng độ.
Người sinh năm Giáp, lúc vào đại
vận Kỷ Tị có Cự môn thủ Mệnh của đại vận, có Thiên cơ thủ Tài
bạch của đại vận, bị lưu Dương lưu Đà của đại vận chiếu xạ. Đây là
vận trình mang tính trải nghiệp của mệnh tạo.
Năm Ất Sửu, Thiên đồng thủ cung Tài
của lưu niên gặp Thái âm Hóa Kị, vì vậy năm Ất Sửu đầu tư thất bại,
rõ ràng thấy thế của thị trường đúng, nhưng vì thời gian phối hợp
không tốt, dẫn đến đầu tư không đúng thời cơ.
Kết cấu “Linh Tham” thủ cung Tài vốn
có lợi về đầu cơ, nhưng đại vận hoặc lưu niên không phối hợp với nhau,
thì bản chất của hệ “Linh Tham” cũng không thể phát huy. Đây là ví
dụ đáng được chú ý.
Tham lang và Liêm trinh đồng độ ở Tị Hợi
Tham lang và Liêm trinh đồng độ ở Tị
hoặc ở Hợi, cung đối diện vô chính diệu, cung tam phương có “Vũ khúc
Thất sát” và “Tử vi Phá quân” hội hợp.
Muốn luận đoán đặc tính của hệ
“Liêm trinh Tham lang” đồng độ, cần chú ý phân biệt khuynh hướng “chú trọng tình cảm” và khuynh
hướng “ham muốn vật chất”. Liêm
trinh chủ về “chú trọng tình cảm”. Tham lang chủ về “ham muốn vật
chất”.
Nếu Liêm trinh mạnh
(như Liêm trinh Hóa Lộc, hoặc gặp các sao Văn xương, Văn khúc, Hồng
loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Đại hao, Mộc dục, Thiên diêu, Tam thai, Bát
tọa, Đài phụ, Phong cáo), thì hệ “Liêm trinh Tham lang” thuộc vào loại
có bản chất “chú trọng tình cảm”.
Nếu Tham lang mạnh (như Tham lang Hóa
Lộc, Hóa Quyền; hoặc gặp các sao Tả phụ, Hữu bật, Ân quang, Thiên
quý, Long trì, Phượng các, Thiên quan, Thiên phúc), thì hệ “Liêm trinh
Tham lang” thuộc vào loại có bản chất “ham muốn vật chất”.
Khi Liêm trinh Hóa Kị, hoặc gặp Âm
sát, Kiếp sát, Cô thần, Quả tú, sẽ làm yếu đi tính chất “chú trọng
tình cảm” của hệ “Liêm trinh Tham lang”. Khi Tham lang Hóa Kị, gặp Thiên
khốc, Thiên hư, Tức thần, Hoa cái, cũng làm cho đặc tính “chú trọng tình
cảm” của hệ “Liêm trinh Tham lang” bị yếu đi, phong độ tình cảm thoái
hóa, suy giảm.
Khi Tham lang Hóa Kị, gặp Địa không,
Địa kiếp, Phá toái, Vong Thần, thì sẽ làm yếu đi tính “ham muốn vật
chất” của hệ “Liêm trinh Tham lang”.
Tính “ham muốn vật chất” của hệ
“Vũ khúc Thất sát” ở cung tam phương rất mạnh. Vũ khúc là sao chủ
về tiền tài, gặp Thất sát đồng độ thì chủ về quyền tài chính.
Nếu Vũ khúc Hóa Lộc hay Hóa Quyền, làm mạnh thêm tính “ham muốn vật
chất” của Liêm trinh. Nếu có Văn xương, Văn khúc đồng độ, thì hệ “Vũ
khúc Thất sát” lại mang sắc thái “chú trọng tình cảm”.
Hệ “Tử vi Phá quân” ở cung tam phương
không “chú trọng tình cảm”, nhưng lúc hệ “Tử vi Phá quân” thuộc vào
loại “phản kháng” thì được coi là tinh hệ mang sắc thái “chú trọng tình
cảm”. Cho nên, cần xem hệ “Tử vi Phá quân” thuộc vào tính chất cụ thể
nào, để biết được sự ảnh hưởng đến “tình cảm” của hệ “Vũ khúc
Phá quân”. Đây theo nguyên tắc của tam phương hội hợp, hệ “Tử vi Phá
quân” tác động ảnh hưởng đến hệ “Vũ khúc Thất sát”, rồi hệ “Vũ
khúc Thất sát” tiếp tục truyền ảnh hưởng dồn về hệ “Liêm trinh Tham
lang”.
Hệ “Liêm trinh Tham lang” hội hợp với
tam phương tứ chính, khiến chúng mang nặng tính “chú trọng tình cảm”,
tính “ham muốn vật chất” cũng nặng, còn mang sắc thái theo đuổi dục
vọng, do đó thành tinh hệ đào hoa. Lúc này cung Phúc đức nên kiên
cường, hữu lực, thì còn có thể có chủ trương, không đến nỗi bị
cuốn theo dòng nước, đời sống tình dục buông thả.
Cung Phúc đức ắt là Thiên tướng độc
tọa. Lúc này không nên gặp cách “Hình kị giáp ấn”, nếu không sẽ chủ
về ý chí không ổn định (thất chí), hoặc bị người ta uy hiếm tinh
thần, thành ẩu dâm bừa bãi. Cũng không nên bị “Tài ấm giáp ấn”, nếu
không sẽ chủ về là người nhu nhược mềm yếu, hay ỷ lại người khác,
cũng dễ bị người ta lợi dụng sai bảo. Rất ưa hệ “Tử vi Phá quân” ở
cung đối diện được “bách quan triều củng”, hoặc có kèm Thiên hình vây
chiếu, được cách như vậy, có thể khiến hệ “Liêm trinh Tham lang” thiên
nặng chất đào hoa quy về chính đạo.
Hệ “Liêm trinh Tham lang” đồng cung
với sao Không, chỉ ở trong trường hợp mệnh cách “chú trọng tình cảm”
nặng hơn mệnh cách “ham muốn vật chất”, thì mới có thể cải hóa đào
hoa thành nghệ thuật, hoặc thành nghề nghiệp có tính giải trí, vui
chơi, tiêu dùng. Nếu tính “ham muốn vật chất” nặng hơn tính “chú
trọng tình cảm”, có sao Không đồng cung, thì trái lại, dễ có khuynh
hướng theo đuổi cảm giác mạnh, khó kiểm soát động lực kích thích
nhục dục, nên khả năng duy trì khí chất nghệ thuật sẽ mờ nhạt.
Hệ “Liêm trinh Tham lang” đến các cung
hạn Thất sát, Phá quân, Tham lang, cần chú ý xem có biến động thay
đổi tính chất của “Liêm trinh Tham lang” ở nguyên cục hay không. Đây là
điều cần thiết để có thể luận đoán chính xác.
Ví dụ hệ “Tử vi Phá quân”, nguyên
cục Tử vi Hóa Khoa, do đó khiến tính chất không lành của hệ “Liêm
trinh Tham lang” sẽ vì danh dự mà tự biết kềm chế, nhuyễn hóa thành
sức mạnh theo đuổi sự nghiệp giải trí, vui chơi, tiêu dùng. Nếu hệ
“Liêm trinh Tham lang” đến cung hạn “Tử vi Phá quân”, có Kình dương Đà
la hội chiếu, lại gặp Văn khúc Hóa Kị và hệ “Tử vi Phá quân” cùng
bay đến, lúc này khuynh hướng “chú trọng tình cảm” và khuynh hướng
“ham muốn vật chất” sẽ nảy sinh xung đột, vì tâm trạng mất quân bình,
nên mệnh cách theo đuổi cảm giác kích thích, dẫn đến danh dự bị tổn
hại.
Lại như hệ “Vũ khúc Thất sát”,
nguyên cục Vũ khúc Hóa Kị, đã bất lợi cho tính “ham muốn vật chất”,
nay lại đến cung hạn “Vũ khúc Thất sát”, có Tham lang Hóa Kị đến
hội hợp, tính “ham muốn vật chất” càng khó thỏa mãn. Lúc này, đối
với hệ “Liêm trinh Tham lang” vốn thiên về “chú trọng tình cảm” dễ vì
tâm trạng mất quân bình mà xảy ra sự cố, hoặc lãng phí phá bỏ tình
cảm để theo đuổi “ham muốn vật chất”.
Cần phải phân tích rõ như vậy, xem
tính chất nguyên cục hệ “Liêm trinh Tham lang” sau khi cộng thêm Lưu diệu
sẽ diễn biến ra sao. Xem có phải từ quân bình biến thành mất quân
bình, hoặc ngược lại, từ mất quân bình trở thành quân bình. Lại xét
phương diện “chú trọng tình cảm” xảy ra như thế nào, khuynh hướng thay
đổi là tốt hay xấu, mới có thể xác định đúng tính chất của hệ
“Liêm trinh Tham lang” nguyên cục, khi vận trình đến ba cung đại hạn
hoặc ba lưu niên “Liêm trinh Tham lang”, “Vũ khúc Thất sát” và “Tử vi
Phá quân”.
Cung hạn Thiên phủ độc tọa, phải
xác định rõ có bị “kho trống” hay “kho lộ” hay không. Nếu Thiên phủ
là “kho trống”, “kho lộ” sẽ khiến cho hệ “Liêm trinh Tham lang” đau khổ
vì sự theo đuổi “ham muốn vật chất” không được toại nguyện. Nếu hệ
“Liêm trinh Tham lang” nguyên cục thiên về “chú trọng tình cảm”, thì nên
đề phòng thất chí, sa chân lỡ bước.
Cung hạn Thiên phủ là “kho đầy”, thì
hệ “Liêm trinh Tham lang” nặng tính “ham muốn vật chất” sẽ là vận hạn
đắc ý, ít nhất thì sinh hoạt vật chất cũng dồi dào. Người thiên về
“chú trọng tình cảm” mà đến cung hạn này, sẽ cảm thấy tinh thần
trống rỗng, nếu Liêm trinh nguyên cục vốn nặng tính đào hoa, sẽ vì
nguyên nhân tinh thần trống rỗng mà quyết yêu người đã có gia đình.
Hành động phạm luật này là cát hay hung, xem xét tổ hợp Phụ, Tá,
Tạp diệu như thế nào mà định.
Cung hạn Thái âm độc tọa, nếu bản
chất của Thái âm là “hành đồng mù quáng”, cũng như hệ “Liêm trinh
Tham lang” thiên nặng về “ham muốn vật chất” đều không nên gặp nhau.
Thái âm thuộc loại bản chất “hành động mù quáng” sẽ khiến cho hệ
“Liêm trinh Tham lang” có sự nghiệp bị đình trệ, trở ngại. Còn bản
thân hệ “Liêm trinh Tham lang” tự gây nên rắc rối về tình cảm, khiến
tình cảm u uất này cùng tác động đến sự nghiệp. “Chú trọng tình
cảm” và “ham muốn vật chất”, hai khuynh hướng này khắc chế lẫn nhau,
nếu mệnh cách kiểm soát được sự quân bình, thì đường sự nghiệp sẽ
không bị tổn hại, thất bại.
Nếu bản chất của Thái âm thuộc vào
loại “lý tưởng có mục tiêu” mà không phải thuộc loại “hành động mù
quáng”, hệ “Liêm trinh Tham lang” thiên về “chú trọng tình cảm”, có
thể vì quá chuyên tâm chú trọng vào chuyện tình cảm phong phú mà phương
hại đến quan vận. Đối với hệ “Liêm trinh Tham lang” thuộc loại “ham
muốn vật chất” quá nặng, sẽ tập chung chuyên tâm vào học hành, sự
nghiệp chuyên nhất, mà dễn đến hy sinh tình cảm. Cho nên, gặp cung hạn
Thái âm độc tọa này, chỉ có lợi khi hệ “Liêm trinh Tham lang” ở trong
giới hạn quân bình, trung hòa. Cần xem thêm vận thế ở hậu vận để
luận đoán thêm tinh xác.
Cung hạn Cự môn độc tọa, sẽ bất
lợi đối với hệ “Liêm trinh Tham lang”. Dù có hội với Cát tinh cũng
phải bôn ba vất vả, cảm thấy có phúc mà không được hưởng, hoặc vì
tình cảm xảy ra sóng gió trắc trở, khiến tinh thần bị khốn khổ.
Nếu lại gặp các sao Sát Kị, chủ về gặp nhiều rắc rối thị phi,
hoặc tinh thần đau khổ mất ăn mất ngủ khiến sức khỏe giảm sút nghiêm
trọng.
Khi nguyên cục Liêm trinh Hóa Kị, đến
cung hạn Cự môn, nữ mệnh rất cần đề phòng sa chân lỡ bước, bị tình
cảm gây khổ lụy.
Khi nguyên cục Tham lang Hóa Kị, đến
cung hạn Cự môn, nam mệnh rất cần đề phòng phạm pháp, bị “ham muốn
vật chất” gây khổ lụy.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa, khi
Thiên tướng bị “Hình kị giáp ấn”, sẽ gây bất lợi cho hệ “Liêm trinh
Tham lang” thiên nặng về “ham muốn vật chất”. Khi Thiên tướng thuộc
cách “Tài ấm giáp ấn”, sẽ gây bất lợi cho hệ “Liêm trinh Tham lang”
thiên về “chú trọng tình cảm”.
Nếu hệ “Liêm trinh Tham lang” có bản
chất “trung hòa”, “quân bình” đến cung hạn Thiên tướng, cung hạn lại
có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, hội hợp, thì đây là thời
điểm khai vận, là cơ hội để sáng lập sự nghiệp mới.
Cung hạn “Thiên đồng Thiên lương” đồng
độ, mệnh cách “chú trọng tình cảm” rất ưa gặp Thiên đồng Hóa Lộc
mà không ưa Hóa Kị. Đối với mệnh cách “ham muốn vật chất” đến cung
hạn này mà gặp thêm Cát tinh, các tình huống rắc rối, áp lực mờ
ám tự nhiên được tháo gỡ, khiến tâm trạng được giải thoát.
Cung hạn Thái dương độc tọa, hệ
“Liêm trinh Tham lang” rất kị đến khi Thái dương lạc hãm, hoặc Thái
dương hóa làm sao Kị. Nếu Thái dương thừa vượng nhập miếu, hoặc hóa
làm sao Quyền hay hóa thành sao Lộc, là điềm “danh thành công toại”
của hệ “Liêm trinh Tham lang” có bản chất quân bình. Dù ở lưu niên,
cũng được người quan tâm đề bạt, giới thiệu.
Thái dương chủ về hướng ngoại, hệ
“Liêm trinh Tham lang” vốn cũng không có tính hướng nội. Cho nên lúc
Thái dương hội hợp với các sao cát tường, thông thường là lưu niên đắc
ý. Lúc Thái dương hội hợp với các sao không cát tường, thì đây là
lưu niên vì tình cảm bộc lộ mà phạm sai lầm, hoặc vì ham muốn vật
chất mà phạm sai lầm. Lúc hội hợp với các sao Sát Kị Hình Hao thì
càng chủ về hung họa sẽ lớn mà còn bị ảnh hưởng lâu dài.
Cung hạn Thiên cơ độc tọa, sau khi
thêm các Lưu diệu, xét xem Thiên cơ thuộc loại tính chất nào, là
người có tính “nguyên tắc” hay là người “bị tâm trạng hóa”, thì mới
có thể biết rõ cát hung khi hệ “Liêm trinh Tham lang” đến cung hạn
này. Đại khái là, hệ “Liêm trinh Tham lang” thiên nặng về “ham muốn
vật chất” sẽ ưa Thiên cơ mạng tính “nguyên tắc”, mà không ưa gặp Thiên
cơ “bị tâm trạng hóa”, trong lưu niên này rất nên vạch kế sách mang
tính ổn định, vạch kế hoạch mang tính chiến lược lâu dài. Hệ “Liêm
trinh Tham lang” thiên về “chú trọng tình cảm” cũng ưa gặp Thiên cơ mang
tính “nguyên tắc”, trong lưu niên này có thể quyết định nên giữ hay nên
bỏ về chuyện tình cảm. Nếu đến lưu niên, mà Thiên cơ “bị tâm trạng
hóa”, thì cả hai loại mệnh cách “chú trọng tình cảm” và mệnh cách
“ham muốn vật chất” đều chủ về đưa ra quyết định sai lầm, nếu tổ
hợp các sao lại nhiều Sát tinh, thì vì quyết định sai lầm mà diễn
biến càng thêm nguy hiểm.
Đơn cử ví dụ: hệ
“Liêm trinh Tham lang” ở cung Mệnh.
Hệ “Liêm trinh Tham lang” tọa mệnh ở
Tị, người sinh năm Quý có Tham lang nguyên cục Hóa Kị, nhưng không có
các sao đào hoa đồng độ, hội hợp với hệ “Tử vi Phá quân” có Phá
quân nguyên cục Hóa Lộc, như vậy Tài cách không có sắc thái rắc rối
về tình cảm.
Đến đại hạn Bính Thìn là cung hạn
có Thái âm độc tọa, đồng độ với Đà la của đại vận; cung Phúc đức
của đại vận gặp Cự môn nguyên cục Hóa Quyền, đồng độ với lưu niên,
cung đối diện là Thiên cơ Hóa Quyền do can Bính của đại vận. Hơn nữa
cung Phụ mẫu của nguyên cục (tức cung Phúc đức của đại vận) có các
sao đào hoa tụ tập, đây là điềm gặp rắc rối về tình cảm.
Đến năm Kỷ Mùi, có Thiên tướng thủ
cung Mệnh của lưu niên, đồng độ với Kình dương của lưu niên (chú ý:
cung Mệnh của đại vận và cung Mệnh của lưu niên đều có lưu Dương lưu
Đà), nguyên cục Tham lang Hóa Kị, ở lưu niên thì Tham lang Hóa Quyền
lại gặp Đà la, hơn nữa cung Thê của lưu niên có Văn khúc Hóa Kị gây
ảnh hưởng đến hệ “Liêm trinh Tham lang” ở cung Thê của lưu niên. Cho nên,
trong niên hạn này, đột nhiên phát sinh tình yêu không bình thường với
chị dâu của vị hôn thê. Mệnh tạo lúc này mới chỉ 17 tuổi (chú ý:
cung Thê của lưu niên và cung Thê của nguyên cục đều gặp Vũ khúc và
Thiên phủ).
Nếu Tham lang ở cung Mệnh nguyên cục
không Hóa Kị, hơn nữa vận trình không đến cung hạn Cự môn thủ cung
Phúc đức của đại vận, thì không đến nỗi xảy ra sự cố này. Do đó
có thể thấy, hệ “Liêm trinh Tham lang” không ưa gặp Cự môn. Nếu trong
cung viên Cự môn không có các sao đào hoa tụ tập nhiều, thì cũng không
đến nỗi xuất hiện vấn đề tình cảm mạo phạm luân thường.
Cảm ơn tác giả về bài viết
Trả lờiXóacảm ơn tác giả nhiều lắm
Trả lờiXóa