Tổng luận
Thất sát là sao của Nam Đẩu, thuộc âm
Kim, Thất sát được coi là “tướng tinh”. Trong Đẩu Số có hai “tướng
tinh” là Thất sát và Phá quân, hai sao này luôn luôn tương hội ở tam
phương, hai bên hỗ trợ thanh thế cho nhau.
Hai tướng tinh Thất sát và Phá quân
có đặc tính khác nhau, cổ nhân ví Phá quân là tướng tiên phong trong
quân, còn Thất sát là chủ soái trong quân, khi so sánh, Thất sát chủ
về “lao tâm”, Phá quân chủ về “lao lực”. Thất sát chủ về hành động
một mình, đơn phương độc mã. Phá quân chủ về phải đợi hiệu lệnh,
mệnh lệnh ở chủ soái.
Khi tình hình Tử vi đồng độ cùng
với Phá quân, trở thành tinh hệ “Tử vi Phá quân” lại có xung đột
quyền lực. Tử vi lấy tư cách tôn quý của hoàng Đế để xung trận, còn
Phá quân chịu sự điều khiển của Tử vi, nhưng lại đảm đương trọng
trách tiên phong, nhiều lúc khó tránh tình huống công thủ, tiến thoái
bị mâu thuẫn. Thất sát thì không như vậy, lúc Tử vi và Thất sát
đồng độ, thành tinh hệ “Tử vi Thất sát”, lúc này, Thất sát nhận
lệnh trực tiếp từ quân vương, quyền lực càng lớn, “hóa sát làm
quyền” liêm khiết chuyên chính, nên không xảy ra tình huống xung đột
quyền lực.
Thất sát có tính “cứng rắn và hình khắc”, là sắc
thái đặc biệt của Thất sát. Do tính “cứng
rắn và hình khắc”, nên không ưa Văn xương, Văn khúc, khí chất hai
bên không hợp, để tương hợp văn tinh và võ tinh, cần có điều kiện, đó
là khi có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng thời hội
hợp. Đặc biệt là khi “Tử vi Thất sát” đồng cung, có các Phụ diệu
và Tá diệu “triều củng” sao Tử vi, sẽ trở thành đại cách.
Cổ nhân có thuyết “Thất sát thủ
mệnh, thừa vượng nhập miếu, chủ về có mưu lược. Gặp Tử vi lại thêm
sao Cát, ắt là đại tướng” (Thất
sát thủ mệnh miếu vượng hữu mưu lược. Kiến Tử vi gia kiến chư cát,
tất vi đại tướng). Còn có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng
nhập miếu, được Tả phụ Hữu bật Văn
xương Văn khúc vây chiếu, chủ về nắm quyền sinh sát, phú quý
hơn người” (Thất sát thủ mệnh miếu vượng đắc Tả
Hữu Xương Khúc củng chiếu, chưởng sinh sát chi quyền, phú quý xuất
chúng).
Thất sát gặp các sao Sát Kị Hình,
càng làm mạnh thêm tính “cứng rắn
và hình khắc” của nó, do đó cũng làm mệnh cách thường gặp cảnh
ngộ gian nan. Cổ nhân nói “Thất sát và Phá quân, chuyên theo tai vạ
của Kình dương và Linh tinh” (Thất
sát Phá quân, chuyên y, Dương Linh chi ngược), “Thất sát mà gặp bốn
sao sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về chết ở trận
tiền” (Thất sát trùng phùng tứ
sát, yêu đà bối khúc trận trung vong).
Lúc đại hạn và lưu niên gặp lưu Sát
tinh, cũng chủ về không cát tường, cổ nhân nói “Thất sát và lưu Kình
dương gặp Quan phù, chủ về xa quê hương” (Thất sát lưu Dương ngộ Quan phù, li hương tao phối), cổ nhân
còn nói “Thất sát đến cung Thân hay cung Mệnh, gặp lưu niên Kình dương
Đà la, chủ về tai họa tổn thương” (Thất
sát lâm thân mệnh, lưu niên Dương Đà, chủ tai thương); “Thất sát gặp
Kình dương và Linh tinh có lưu niên Bạch hổ, chủ về bị tai kiếp ở
biên cương” (Thất sát Dương Linh, lưu
niên Bạch hổ, hình lục tai biên); kết cấu hung hiểm nhất là “Thất
sát thủ mệnh có Kình dương của niên hạn chiếu, người sinh năm Ngọ an
ở Mão hoặc Dậu, chủ về hung” (Thất
sát thủ chiếu tuế hạn Kình dương, Ngọ sinh nhân an Mão Dậu cung, chủ
hung vong), đây là nói về kết cấu “Kình dương Đà la trùng điệp”.
Phàm các thuyết liên quan đến việc
Thất sát gặp Sát tinh, đều cho rằng Thất sát không nên gặp thêm tứ
Sát và Địa không, Địa kiếp.
Thất sát được cách nổi tiếng nhất
là “Hùng tú kiền nguyên”, tức
là khi Thất sát và Liêm trinh đồng cung tại Mùi, hoặc Thất sát ở
Ngọ và Liêm trinh ở Thân, hai cung chia ra một ở cung Thân và một ở
cung Mệnh. Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính chất biến hóa rất
lớn. Cùng một cung mệnh, nhưng cách cục cao thấp có mức độ chênh
lệch rất lớn (Mân phái cho rằng ở
Sửu tốt hơn ở Mùi), Tam hợp
phái cho rằng, có nhiều loại phối hợp ở Mùi mà có sự thành tựu
lớn hơn rất nhiều so với ở Sửu. Cách nổi tiếng này ưa gặp sao Lộc,
Văn xương, Văn khúc, bởi vì âm Hỏa của Liêm trinh tôi luyện âm Kim của
Thất sát, cho nên không ưa gặp các sao “dương cương” gây rối loạn đầu
cuối và làm tình thế khó ứng xử, lại sợ có Hỏa tinh cùng bay đến
là phá cách, vì cổ nhân ví sự đồng độ của “Liêm trinh Thất sát” là
Hỏa luyện Kim, gặp thêm Hỏa tinh bay đến phá hoại, thì hỏa hầu bị
mất điều hòa.
Thất sát độc tọa ở Dần, cung đối
diện có “Tử vi Thiên phủ”, gọi là “Thất sát ngưỡng đẩu”. Khi Thất
sát độc tọa ở Thân, cung đối diện có “Tử vi Thiên phủ” gọi là “Thất sát triều đẩu”. “Triều
đẩu” và “ngưỡng đẩu” đều chủ về cuộc đời gặp nhiều cơ hội, còn
chủ về năng lực quản lý tốt. Nếu gặp “tam cát hóa” có thêm Cát tinh
chủ về đại quý; nếu đồng thời có thêm Sát tinh chủ về theo nghề
sản xuất hoặc theo những nghề mà tài năng quản lý được phát huy.
Bất kể là nhập cách hay không nhập
cách, người có Thất sát độc tọa thủ mệnh, cuộc đời sẽ gặp nhiều
sóng gió, trắc trở; dù có chính diệu khác đồng độ, ắt cũng phải
trải qua một thời kỳ khốn khó, nếu gặp Sát tinh tụ hội thì khốn
khó trắc trở càng nặng hơn, chủ về phá tán gẫy đổ. Cho nên cần
phải “hành động thiết thực” để giữ vững hiện trạng, không nên đầu cơ
may rủi. Nếu gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Lộc tồn,
Hóa Lộc, chủ về cuộc đời sẽ được bạn bè hiệp trợ và trợ lực,
nhờ đó mà vượt qua ải khốn khó.
Khi đánh giá tình huống cát hung
của Thất sát độc tọa, cần phải chú ý tính “cứng rắn và hình
khắc” của Thất sát ở mức độ nào. Nhất là nữ mệnh, quá “cứng rắn
và hình khắc” ắt sẽ “hình phu khắc tử”, đời người khó tránh cô
tịch.
Thất sát tối kị Kình dương Đà la,
cũng không ưa gặp sao Tuyệt và không ưa ở vào tình thế hãm địa, Cổ
nhân nói “Thất sát mà đến đất Tuyệt, hội hợp với Kình dương Đà la,
tuổi trời như Nhan Hồi” (Sát lâm
tuyệt địa hội Dương Đà, thiên niên thiên tự Nhan Hồi), “Tuyệt địa”
ở đây tức là vị trí sao Tuyệt trong “Ngũ hành Trưởng sinh thập nhị
thần”, thuyết này tuy nói quá nghiêm trọng, nhưng cũng chủ về cuộc
đời nhiều âu lo, nạn tai, bệnh tật. Hơn nữa, kết cấu tinh hệ kiểu
này có cách cục không cao, chỉ thích hợp theo ngành công nghệ, khoa
học kỹ thuật hoặc những nghề chuyên nghiệp thông thường.
Cổ nhân nói “Thất sát hãm địa, chủ
về nên dùng tay nghề khéo để mưu sinh” (Thất sát hãm địa, xảo nghệ mưu sinh). Gặp tinh trạng này,
rất nên gặp các sao Văn xương, Văn khúc, Long trì, Phượng các, Thiên
tài, chủ về làm tăng thêm thông minh tài trí trong nghề nghiệp. Nếu
gặp Sát tinh thì nên theo Võ nghiệp hoặc những nghề nghiệp có “sát
khí”, tức chọn những nghề dính dáng đến kim loại, công cụ bén nhọn
để mưu sinh. Cổ nhân nói “Thất sát có Kình dương Đà la hội hợp mệnh
đồ tể” (Thất sát Dương Đà hội sinh
hương đồ tể chi nhân) là nói về lý này. Nhưng nếu gặp Hóa Lộc,
Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu, lại có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên
khôi Thiên việt đồng độ hay hội hợp, thì lại chủ về có địa vị cao
trong xã hội.
“Thất sát Liêm trinh” đồng độ ở cung
Mệnh hoặc cung Thiên di, gặp Kình dương Đà la và Hóa Kị, hơn nữa còn
có lưu Kình, lưu Đà, lưu Kị xung khởi, đây là cách cục nổi tiếng
“Sát củng Liêm trinh cách”, chủ về đi xa có chuyện bất trắc. Có
thuyết “Liêm trinh Thất sát đồng cung, chủ về chôn thây trên đường” (Liêm Sát đồng vị, lộ thượng mai thi),
gặp Vũ khúc Hóa Kị và Liêm trinh Hóa Kị thì càng nghiệm. Thất sát
có Phá quân, Liêm trinh hội hợp, cũng chủ về tai nạn giao thông.
Tổ hợp Thất sát ở 12 cung ắt sẽ
đối diện với Thiên phủ, tính vững vàng của Thiên phủ và tính xung
kích của Thất sát sẽ hình thành sự xung đột, khi luận giải cần
phải xem xét kỹ sự ảnh hưởng lẫn nhau của chúng.
Thất sát độc tọa ở Tý hoặc Ngọ,
sẽ đối diện với “Vũ khúc Thiên phủ”. Ở Mão hoặc ở Dậu thì “Thất
sát Vũ khúc” đồng độ; cho nên bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp
“Vũ khúc, Thất sát, Thiên phủ”.
Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở
Tuất sẽ đối củng với “Liêm trinh Thiên phủ”; ở Sửu hoặc ở Mùi có
“Thất sát Liêm trinh”, cho nên bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp
“Liêm trinh, Thất sát, Thiên phủ”.
Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở
Thân sẽ đối củng với “Tử vi Thiên phủ”, ở Tị hoặc ở Hợi có “Tử vi
Thất sát” đồng độ, cho nên bốn cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp “Tử
vi, Thất sát, Thiên phủ”.
Biệt cách
Các sao có liên quan mật thiết với
Thất sát, đó là Phá quân và Tham lang. Ba sao này hội chiếu ở tam
phương, gọi là tổ hợp “Sát Phá Tham”.
Thất sát bài bố ở 12 cung, cấu tạo
cơ bản được phân làm 6 tổ hợp như sau:
-
Ở
Tý Ngọ, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Vũ khúc Thiên phủ”
-
Ở
Sửu Mùi, Thất sát đồng độ với Liêm trinh
-
Ở
Dần Thân, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Tử vi Thiên phủ”
-
Ở
Mão Dậu, Thất sát đồng độ với Vũ khúc
-
Ở
Thìn Tuất, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Liêm trinh Thiên phủ”
-
Ở
Tị Hợi, Thất sát đồng độ với Tử vi
Từ các tổ hợp này có thể thấy,
các sao có quan hệ với Thất sát, ngoại trừ Phá quân và Tham lang ra,
còn phải kể thêm bốn sao Tử vi, Thiên phủ, Liêm trinh, Vũ khúc.
Thất sát rất ưa gặp Tử vi, cho nên
khi thủ mệnh ở bốn cung Dần Thân Tị Hợi, phần nhiều dễ “hợp cục
nhập cách”, mà trở thành cát tường. Tổ hợp “Tử vi Thất sát” hóa
làm “quyền lực”. Thất sát ở cung đối diện với Tử vi, cũng chủ về
làm tăng “sức khai sáng” của mệnh cách; nhưng tính chất của Thiên phủ
đồng thời lại khiến cho mệnh tạo dễ rơi vào hư ảo; nhìn từ mặt
tích cực, Thất sát ở Tị Hợi sẽ tốt hơn ở Dần Thân, nhưng người có
Thất sát thủ mệnh ở Dần Thân lại sống có ý vị triết học, không như
người có Thất sát thủ mệnh ở Tị Hợi, luôn luôn cảm thấy không thỏa
mãn dục vọng quyền lực.
Thất sát đồng độ với Liêm trinh,
tính nhu của Liêm trinh có thể hóa giải tính cương của Thất sát, lúc
này cần phải xem các sao Phụ diệu và Tá diệu hội hợp để định, nếu
Hung thì thiên nặng về nhục dục, nếu Cát thì phẩm cách cương trực
trung chính, còn thêm phần khí chất văn nghệ, phong lưu nho nhã, tuyệt
đối không có chút gì hạ lưu. Nhưng Thất sát đối nhau với “Liêm trinh
Thiên phủ”, là có thêm phần cảm khái, thường cảm thấy cuộc đời không
đẹp như “hoa trong gương” hay như “trăng dưới nước”, thường khiến cho
mệnh cách như một chiến tướng dục tốc nơi xa trường, xông pha trong
mũi tên hòn đạn.
“Thất sát Vũ khúc” đồng độ, là
một tổ hợp tinh hệ rất tích cực mà lại thiếu tài lãnh đạo. Có
Thiên phủ ở cung đối diện hội chiếu, nên tài năng độc lập của Thất
sát lại dễ được phát huy, nhưng thường có biểu hiện độc tài, cho nên
có khuyết điểm về năng lực lãnh đạo. Trong các tổ hợp tinh hệ của
Thất sát, thì tổ hợp này được xếp vào loại ưu, sóng gió ít và
nhỏ, nếu để tìm một cuộc sống an định, đương nhiên mệnh cách này là
thích hợp.
Thất sát thủ cung, chủ về hành động thiết thực
Trong Đẩu Số, Thất sát là sao “cương
mãnh”, phối tam phương Sát Phá Tham là có thâm ý. Lực phá hoại của
Phá quân và tính khéo ăn khéo ở của Tham lang được nhuyễn hóa trong
vô hình, còn tính phá hoại của Thất sát thường là cơ mưu tính toán
phối hợp hành động, tổ hợp Sát Phá Tham hội hợp có sắc thái “cương
nhu tương tế”. Người có Thất sát thủ mệnh, có đặc điểm là thiết thực,
không nịnh bợ, không chần chừ, dứt khoát không lần nữa, không cẩu
thả. Khi Thất sát hội với các sao quá mạnh, như gặp Hỏa tinh Linh
tinh, thì mệnh cách dễ chuốc lấy oán hận, nếu hội với Địa không
Địa kiếp thường cảm thấy tâm hồn trống rỗng, sinh hoạt xã giao ít
hợp quần.
Xã hội thời cổ đại, người có nghề
đặc thù, mới có cảnh ngộ “độn thế và nhập thế” được gọi là cao
nhân ẩn sĩ, cho nên cổ quyết nói “Thất sát hãm địa, nhờ tay nghề
khéo mà mưu sinh”, “Tính thê lương thì số nên làm tăng nhân, đạo sĩ”.
Thực ra, người có Thất sát thủ mệnh không như cổ thư nói, trong xã
hội ngày nay, người có Thất sát là người có hành động thiết thực,
như cổ thư nói “Thất sát nhập Mệnh Thân, gặp Cát tinh, ắt sẽ trải
qua gian khổ”, đây là một đánh giá thỏa đáng; không như Tham lang dễ
khéo léo mưu lợi, cũng không như Phá quân phá hoại tất cả, một sống
hai chết, không cần phải xem xét lại, còn Thất sát thì đương nhiên
“trải qua gian khổ” sau mới có thành tựu.
Người có Thất sát thủ mệnh, phần
nhiều sức đề kháng tiên thiên của Phổi không đủ, trước kia y dược còn
lạc hậu, vì vậy cho rằng Thất sát mà hội thêm với Hung tinh thì dễ
yểu mạng, cho rằng nguyên nhân chết là vì bệnh Phổi và bệnh Suyễn
khí. Ngày nay Y học đã đạt được những tiến bộ vượt bậc, luận đoán
này không còn ứng nghiệm.
Nữ mệnh Thất sát độc tọa cung Phúc đức
Thất sát có đặc tính trôi nổi,
hiếu động, cổ nhân cho rằng không thích hợp với nữ mệnh, ngày nay vẫn
có người nệ cổ cho rằng “Nữ mệnh Thất sát độc tọa ở Phúc đức ắt
sẽ thấp hèn”. Khi cung Phúc đức ở Tý hoặc ở Ngọ có Thất sát độc
tọa, cung Mệnh ắt sẽ là tinh hệ “Tử vi Thiên tướng”, cổ nhân cho rằng
tinh hệ này có tính chất “vô tình vô nghĩa”, thêm vào cung Phúc đức
có Thất sát độc tọa mang tính “hiếu động trôi nổi”, và cổ nhân lập
thuyết cho rằng, không thích hợp với nữ mệnh. Ở xã hội hiện đại,
chủ về không chịu an phận thủ thường với hoàn cảnh đang sống, mà
thường tìm cơ hội thay đổi để thỏa với nhu cầu. Tính cách này
thường phản ánh ở cung Sự nghiệp, không nhất định ảnh hưởng đến đời
sống hôn nhân.
Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức
ở Dần hoặc ở Thân, cung Mệnh ắt là “Liêm trinh Thiên tướng” ở Tý
hoặc ở Ngọ, còn cung Phu là Tham lang và cung Sự nghiệp là Vũ khúc,
với mệnh bàn cấu tạo theo cách này, các sao đều bất lợi về tình
cảm, do đó cổ nhân cho rằng đây là mệnh “xướng kĩ, tỳ thiếp”, bởi vì thời cổ đại, “xướng kĩ, tỳ thiếp”
thường ứng với loại nữ giới hay đùa giỡn với tình cảm. Xã hội
ngày nay, tình cảm xung động nhất thời của con người, cũng như những
tình cảm giao động của nữ mệnh, không hẳn là nhân tố quyết định đổ
vỡ hạnh phúc gia đình.
Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức ở
Thìn hoặc ở Tuất, thì cung Mệnh ắt sẽ là “Vũ khúc Thiên tướng ở
Dần hoặc ở Thân, cổ nhân cho rằng “Vũ khúc là sao cô quả” nên bất
lợi về hôn nhân. Trên thực tế, nữ mệnh có mệnh cách loại này, sở
trường mạnh nhất là “cơ trí”. Thời cổ đại, phụ nữ phải lo lắng chăm
sóc gia đình, luôn ở trong nhà, “cơ trí” không có đất dụng võ, mà
thường phát triển biến thái thành tính “ngầm hại nhau bằng kế mọn”,
đương nhiên không thể kết luận là mệnh cách tốt. Xã hội hiện đại,
chế độ đại gia đình đã không tồn tại, người phụ nữ có sự nghiệp
của riêng mình, người có mệnh cách loại này, ngoài việc giỏi giang
biết chăm lo gia đình, còn giỏi việc giữ tiền và sử dụng đồng tiền,
không chỉ nghĩ tới bản thân mà sự nghiệp cũng có phát triển nhất
định. Làm sao nói là “mệnh thấp hèn” ?
Thất
sát độc tọa Tý Ngọ
Thất sát độc tọa ở Tý hoặc ở
Ngọ, cung đối diện có “Vũ khúc Thiên phủ” đồng độ, các cung tam
phương là Phá quân độc tọa và Tham lang độc tọa.
Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, đối
nhau như vậy có thể nói đây là mệnh cách vào loại mạnh, nhất là
Thất sát ở Ngọ, gặp Cát tinh là thành cách “Hùng tú kiền nguyên”, chủ về tuổi trẻ trải qua gian khổ
sau đó hưng phát. Nếu Thất sát ở Tý gặp Sát tinh tụ hội, chủ về
trung niên hoặc vãn niên rất vất vả, gian khổ, khiến cổ nhân có
thuyết “nhảy sông trầm mình”, khi
không gặp Sát tinh trùng trùng, vẫn chủ về mệnh cách có thành tựu.
Muốn luận giải Thất sát ở Tý Ngọ,
cần phải phân biệt Thất sát thuộc loại “quyền uy” hay thuộc loại
“khắc kị”.
Hễ Thất sát có sao Lộc thì không
phải “khắc kị”. Thất sát rất ưa Tham lang Hóa Lộc, không những tính
chất của Thất sát được Tham lang Hóa Lộc điều hòa, mà Liêm trinh của
cung Phúc đức cũng được điều hòa, rất đúng với cách “Hùng tú kiền nguyên”.
Vũ khúc Hóa Lộc cũng tốt, khiến
cho Thiên phủ đồng độ cũng có sao Lộc, hội hợp và vây chiếu Thất
sát cùng Liêm trinh cũng là thượng cách, có tính chất “quyền uy”.
Phá quân Hóa Lộc ắt sẽ đối nhau
với Tham lang Hóa Kị, ảnh hưởng tới tính chất của Liêm trinh, do vậy
Thất sát cũng bị chi phối bởi nhiều lo lắng, tuy không ảnh hưởng đến
tính “quyền uy”, nhưng đời người gian khổ hơn.
Mệnh cách loại này rất ái ngại khi
Vũ khúc Hóa Kị, hoặc Liêm trinh ở cung Phúc đức Hóa Kị, khiến cho
Thất sát có tính “khắc kị”. Nếu lại gặp các sao Sát Hình, thì nội
tâm nhiều lo lắng, nhất là nữ mệnh chủ về tình cảm “trống không”.
Thất sát rất ngại đồng độ với
Kình dương, sẽ làm tăng tính “khắc kị” rất nặng, cũng không ưa Hỏa
tinh, nếu có “Hỏa tinh Kình dương” đồng thời bay đến, thì tính “khắc
kị” của nó làm cho đời người gặp nhiều tai nạn, sức khỏe cũng có
vấn đề.
Rất ưa có Tả phụ, Hữu bật, Thiên
khôi, Thiên việt tụ hội, không gặp Sát tinh, dù không có cát hóa cũng
chủ về “quyền uy”.
Cung hạn “Thái âm Thái dương” đồng
độ, Thất sát thuộc loại “khắc kị” ưa Thái dương nhập miếu Hóa Lộc
hay Hóa Quyền, còn Thất sát thuộc loại “quyền uy” thì ưa Thái âm nhập
miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền. Khi Thái dương nhập miếu cát hóa sẽ làm
giảm nhẹ tính “khắc kị” của Thất sát, tính “khắc kị” được hóa
giải. Khi Thái âm nhập miếu cát hóa sẽ làm hòa hoãn khí “quyền uy”
của Thất sát. Nếu Thái âm hay Thái dương Hóa Kị, thì Thất sát thuộc
loại “khắc kị” rất ngại, ắt sẽ xảy ra phá tán, thậm chí bị người
gây lụy.
Niên hạn gặp năm Sửu hoặc năm Mùi,
phải mượn “Thái âm Thái dương” để an cung, thì ngoài những tính chất
kể trên, do lúc Thái âm Hóa Lộc thì Cự môn ở cung Tài bạch ắt cũng
Hóa Kị, vì vậy gây ra những nhân tố không phù hợp với Thất sát, chủ
về vận lúc trẻ gặp nghịch cảnh (Thất
sát ở Tý thì cung mệnh của lưu niên ở Sửu, Thất sát ở Ngọ thì cung
mệnh của lưu niên ở Mùi).
Cung hạn Liêm trinh độc tọa, ưa có
sao Lộc, đây là vận thế hưng phát của Thất sát, nếu gặp thêm các
Phụ, Tá, ở nguyên cục loại Thất sát “quyền uy”, chủ về trong vận sẽ
tự sáng lập sự nghiệp.
Nếu Liêm trinh Hóa Kị, lại gặp các
sao Sát Hình Hao, thì người theo Võ nghiệp phải đề phòng xảy ra bất
trắc, nếu nguyên cục là loại Thất sát “khắc kị” thì càng thêm nặng,
dù không theo võ nghiệp cũng phải đề phòng tai nạn đổ máu.
Vũ khúc Hóa Kị của loại nguyên cục
Thất sát “khắc kị” càng là bất lợi. Đạo “xu cát tị hung” là làm những nghề có liên quan đến “máu”,
như nha sỹ, bác sỹ ngoại khoa, khoa phụ sản, hoặc nghề dịch vụ tang
lễ, hỏa thiêu, đồ tể… để giảm thiểu tính “khắc kị”.
Thông thường, Thất sát “quyền uy” ưa
đến cung hạn Phá quân độc tọa, thêm cát hóa, có Cát tinh, ắt sẽ có
chuyển biến theo hướng tốt lành. Thất sát “khắc kị” thì không ưa gặp
cung hạn Phá quân, dù có các Cát tinh hội hợp, cũng phải trải qua
thất bại trước rồi mới chuyển biến thành tốt lành. Nếu hội các sao
Sát Hình, thì thất bại rất nặng, loại Thất sát “khắc kị” đến cung
hạn này là vận hung hiểm.
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, Thất
sát “khắc kị” cũng không ưa đến, chủ về tâm trạng không ổn định, các
sao Hình Kị mà nặng, sẽ chủ về gặp tai nạn, bệnh tật. Thất sát
“quyền uy” mà đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, thì lại là vận tốt,
còn là vận có thu hoạch, nếu gặp thêm cát hóa thì càng thêm tốt.
Xét lưu niên, Thất sát “khắc kị”
phần nhiều đều bất an, nhưng Thất sát “quyền uy” lại là năm định
hình sự nghiệp.
Cung hạn “Vũ khúc Thiên phủ” đồng
độ, bất kể là lưu niên hay đại hạn, Thất sát “quyền uy” đều ưa đến,
chủ về tài lộc dồi dào, hoặc lập được công nghiệp. Đối với Thất
sát “khắc kị”, thì phải có lưu diệu cát tường hội hợp với “Vũ
khúc Thiên phủ” thì mới xét là tốt, nếu lại gặp Sát tinh hoặc hung
tinh bị “hóa”, thì chủ về bị tai nạn rất lớn. Ở cung hạn này, Thất
sát rất ưa gặp lưu Lộc hoặc gặp Hóa Lộc, tính “khắc kị” của Thất
sát mới được hóa giải để giảm thiểu được nạn tai.
Tham lang độc tọa, là cung hạn Thất
sát ưa đến, dù có tính “khắc kị” cũng chủ về một năm thuận lợi toại
ý, nếu được cát hóa và có Cát tinh, còn là thời kỳ tài lộc dồi
dào. Bất kể là lưu niên hay đại hạn đều đúng. Thất sát “quyền uy”
cũng ưa đến vận hạn hay niên hạn gặp Tham lang, chủ về vận thu hoạch.
Tham lang Hóa Kị thì Phá quân đồng
thời Hóa Lộc, chỉ chủ về tăng thêm vất vả gian khổ mà thôi. Chỉ khi
có các sao Sát Kị Hình Hao cùng đến, thì đây là vận hạn không như
ý, nhưng không chủ về nạn tai.
Cung hạn “Thiên cơ Cự môn” đồng độ,
chỉ sợ Cự môn Hóa Kị (ở đại hạn
hay lưu niên), sao hội chiếu mượn Thái dương Hóa Kị để an cung, lại
gặp Sát tinh, loại Thất sát “khắc kị” chủ về bị người gây lụy,
hoặc bị người tranh đoạt. Nữ mệnh cần đề phòng một năm hay một vận
phải ôm hận, hối tiếc. Nếu Thiên cơ Hóa Kị (ở đại hạn hay lưu niên) hội chiếu Thái âm Hóa Kị, loại
Thất sát “khắc kị” mà đến cung hạn này, chủ về bị người mưu ngầm
hãm hại ám toán, ngầm phá hoại mà thất bại. Thất sát “quyền uy”
gặp cung hạn này cũng bất lợi, chủ về gây ra điều tiếng thị phi,
kiện tụng, hoặc do kế hoạch sai lầm mà chịu tổn thất.
Nếu gặp cung hạn có cát hóa, lại
hội cát tinh, đối với Thất sát “khắc kị” chủ về sự nghiệp tuy
thuận, nhưng phải đề phòng vì tửu sắc mà chuốc họa. Đối với Thất
sát “quyền uy”, thì đây là thời kỳ ổn định.
Cung hạn “Tử vi Thiên tướng” đồng
độ, thông thường là đại hạn hay lưu niên, mà loại Thất sát “quyền uy”
ưa đến, nhưng chỉ hơi gặp Sát tinh, thì không nên tự sáng lập khai mở
sự nghiệp mới, thường chủ về hành động mù quáng, quyết định giải
pháp nóng vội nên bị người công kích phản đối, hoặc bị cạnh tranh
không lành mạnh. Loại Thất sát “khắc kị” đến cung hạn này, lại gặp
các sao Sát Kị Hình Hao, chủ về điềm tượng phá tán thất bại. Nếu
là đại hạn, thường trong lúc đang thành công thì đột nhiên xảy ra
trắc trở.
Cung hạn Thiên lương độc tọa, thường
thường là vận trình Thất sát phải rời xa quê hương, nếu không, cũng
chủ về nội tâm bất an. Cung hạn Thiên lương rất kị Thiên đồng Hóa Kị
hội chiếu, lại có Đà la đồng độ, đây là vận hạn Thất sát “khắc
kị” bị lục thân lạnh nhạt. Nhất là nữ mệnh, dễ xảy ra rắc rối về
tình cảm, yêu người đã có gia đình. Nếu Thiên lương có cát hóa và
Cát tinh, thì Thất sát “khắc kị” nảy sinh ý muốn độc lập trong lưu
niên hoặc đại hạn này. Đối với Thất sát “quyền uy” thì đây là niên
vận đặt nền tảng cho sự nghiệp, nhưng vẫn không tránh được tình hình
bất ổn.
Thất
sát và Liêm trinh đồng cung
Thất sát và Liêm trinh đồng độ ở
Sửu hoặc ở Mùi, cung đối diện là Thiên phủ độc tọa, cung tam phương
là “Tử vi Tham lang” và “Vũ khúc Phá quân”, tính chất cấu tạo của
tổ hợp sao khá phức tạp.
Muốn luận đoán bản chất của tinh
hệ “Liêm trinh Thất sát” ở Sửu Mùi, cần phải phân biệt xem chúng
thuộc loại nào, thuộc loại “phấn chấn” hoặc thuộc loại “cương bạo”.
“Liêm trinh Thất sát” thuộc cách “Hùng tú kiền nguyên” ở Mùi, gặp
các Cát tinh, đặc biệt là Văn xương Văn khúc, mà còn hội hợp với
Lộc tồn, Hóa Lộc, nhưng không có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh
tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, thì được xếp vào loại “phấn
chấn”, thông thường, chủ về trải qua gian khổ mà thành đại nghiệp,
khác với “Liêm trinh Thất sát” có tính “cương bạo”.
Gọi là “cương bạo”, là nói tính
chất của các sao mà không nói về khí chất của mệnh tạo, do vậy,
phần nhiều mệnh cách có biểu hiện bị lục thân lạnh nhạt, bản thân
bị tai nạn, bệnh tật, đời người nhiều sóng gió, trắc trở, hoặc
phải bôn ba vất vả rất nhiều.
“Liêm trinh Thất sát” ưa gặp Lộc tồn
hội chiếu và Hóa Lộc hội hợp. Có sao Lộc mà các sao Cát Hung đều
gặp, cũng vẫn chủ về loại mệnh cách “phấn chấn”. Đây là điều kiện
cơ bản.
Nếu mệnh cách “Liêm trinh Thất sát”
không có sao Lộc, dù gặp các Phụ diệu cát và Tá diệu cát, cũng
không đủ để thành mệnh cách “phấn chấn”. Đây là khuyết điểm của
mệnh tạo khi nguyên cục không được gặp sao Lộc.
Nếu mệnh cách “Liêm trinh Thất sát”
không có sao Lộc, lại hội hợp với các sao Sát Kị Hình ở tam phương
tứ chính, thì mệnh cách thuộc tính “cương bạo”, mức độ “cương bạo”
nặng hay nhẹ, thì phải xem các sao Sát Kị nhiều hay ít để định.
“Liêm trinh Thất sát” rất kị hội
hợp với Vũ khúc Hóa Kị, chủ về làm tăng tính “cương bạo” của
chúng. Tham lang Hóa Kị thì không sao, vẫn không bị mất đi bản chất
“phấn chấn”, chỉ làm tăng số lần xảy ra sóng gió, trắc trở, mà
không làm tăng mức độ nặng nhẹ. Khi Phá quân Hóa Quyền cũng được xếp
vào loại “phấn chấn”.
Lộc tồn không nên đồng độ với “Vũ
khúc Phá quân”, mà nên đồng độ với “Tử vi Tham lang”. Trường hợp Lộc
tồn đồng độ với “Vũ khúc Phá quân”, dù khiến “Liêm trinh Thất sát”
có bản chất “phấn chấn”, những vẫn bị áp lực quấy nhiễu, gây khó
khăn về tâm lý, làm ảnh hưởng đến sự nghiệp.
Thiên phủ ở cung đối diện có ảnh
hưởng rất lớn đối với bản chất của “Liêm trinh Thất sát”. Nếu Thiên
phủ là “kho trống”, “kho lộ” sẽ gây ảnh hưởng khiến “Liêm trinh Thất
sát” biến thành “cương bạo”; nếu Thiên phủ Hóa Khoa, mà Thái dương và Thái âm không bị lạc hãm đến
giáp Thiên phủ, sẽ gây ảnh hưởng khiến “Liêm trinh Thất sát” thành
mệnh cách “phấn chấn”.
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, “Liêm
trinh Thất sát” loại “phấn chấn” rất thích hợp đến, đây là vận hạn
phát đạt; nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về chuốc
lấy rắc rối về tình cảm. “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến
cung hạn Thiên đồng độc tọa, được Cát tinh hội hợp, cũng là vận hạn
phát đạt; nếu gặp các sao Sát Kị Hình Hao, thì dễ vì tiền bạc mà
gặp nạn, hoặc xảy ra trắc trở, hoặc chủ về hôn nhân trắc trở.
Cung hạn Thiên đồng Hóa Kị, “Liêm
trinh Thất sát” loại “cương bạo” dễ bị phạm pháp, kiện tụng, gặp
Thiên hình, Đại hao thì càng tệ.
Cung hạn “Vũ khúc Phá quân” đồng
độ, “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn phát” thường thường là vận
trình tốt đẹp. Lưu niên đến cung độ này cũng chủ về có cơ hội sáng
lập sự nghiệp. Nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về
dễ thay lòng đổi dạ. Hiện tượng bề ngoài gần giống như cung hạn
Thiên đồng độc tọa, nhưng bản thân mệnh cách sẽ tự biết nội tâm có
sự cảm thụ khác nhau, đến cung hạn
Thiên đồng sẽ có ý vị của tình yêu, còn lúc đến cung hạn “Vũ khúc
Phá quân” thì thuần túy về nhục dục.
“Liêm trinh Thất sát” loại “cương
bạo” nhập vào cung hạn “Vũ khúc Phá quân” thường chủ về được người
đề bạt, cổ nhân cũng xem vận hạn này là “lập công ở biên cương”, vì vậy tuy được cát lợi cũng khó
tránh khỏi bôn ba vất vả. Nếu cung hạn này lại hội hợp với các sao
Sát Kị, mà “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” nhập cung hạn này,
ắt xảy ra tranh giành tiền của, trong lưu niên Liêm trinh Hóa Kị xung
chiếu với Vũ khúc Hóa Kị sẽ có sắc thái tranh giành tiền của, mà
còn đổ vỡ về tình cảm. Sát tinh nặng, còn gặp Thiên hình, Âm sát
đồng độ, cung Tật ách của nguyên cục không tốt, thì nên đề phòng bất
trắc.
“Liêm trinh Thất sát” loại “cương
bạo” đến cung hạn Thái dương độc tọa, thường thường là năm lục thân
xảy ra sự cố, nặng thì có thể sinh ly tử biệt. “Liêm trinh Thất sát”
loại “phấn chấn” đến cung hạn Thái dương độc tọa, chủ về danh tiếng
ngày càng lớn, hoặc chủ về sự nghiệp khuếch trương lớn. Nếu Hóa Kị
bay đến hóa Thái dương, thì đây là vận xấu của “Liêm trinh Thất sát”,
bất kể thuộc loại bản chất “phấn chấn” hay “cương bạo” cũng đều
không tốt. Cần phải xem kỹ cung Tật ách.
Cung hạn Thiên phủ độc tọa, đối với tính chất của “Liêm trinh
Thất sát” cực kỳ đơn giản, “cương bạo” thì bất lợi, thất bại; “phấn
chấn” thì cát lợi, có thu hoạch.
Nếu ở lưu niên Thiên phủ độc tọa
thủ mệnh, gặp Lộc tồn đến hội hợp, mà nguyên cục không có sao Lộc,
thì không nên tích cực thúc đẩy phát triển, nếu không, không những hao
phí khí lực, mà còn dễ bị người bài xích, chèn ép. Nếu các sao
Sát hình nặng, còn chủ về bị người hãm hại.
Cung hạn “Thiên cơ Thái âm” đồng độ,
“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” mà đến cung hạn này, sẽ xảy ra
sự mất ổn định. Khi Thái âm ở cung vượng, thì đây là vận trình trải
qua sự mất ổn định mà dẫn đến hưng phát, khi Thái âm rơi vào nhàn
cung, thì gặp nhiều phiền phức. Khi Thái âm Hóa Kị thì hậu quả của
sự mất ổn định là không tốt.
Cung hạn “Tử vi Tham lang” rất ưa Hóa
Quyền ở nguyên cục, lúc “Liêm trinh Thất sát” đến sẽ là vận hạn
sáng sủa, phát đạt. Nếu Hóa Quyền của nguyên cục bị Hóa Kị của
vận hạn xung khởi, thì lại càng thêm sáng, chủ về lập được sự
nghiệp và công trạng, cạnh tranh đắc lợi. Nếu có Hóa Kị ở nguyên cục,
thì dù mang bản chất “phấn chấn”, cũng chủ về xảy ra áp lực rất
lớn trong sự nghiệp, phải rất gian khổ để hóa giải. Nếu “Tử vi Tham
lang” ở cung mệnh của đại hạn, chủ về xảy ra cảm giác mệt mỏi,
buồn giầu lo lắng, thậm chí có cảm giác đời người hư ảo.
Thông thường “Liêm trinh Thất sát” ưa
đến cung hạn Cự môn độc tọa, đối với “Liêm trinh Thất sát” loại
“cương bạo” chủ về tình cảm gặp bất lợi, còn sự nghiệp và tiền
bạc không có trở ngại. “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” ưa đến
đại vận hoặc lưu niên Cự môn thuộc cục “phản bối” ở Thìn. Nếu là đại vận, thường những năm đầu
của vận đột nhiên phát lên, tài lộc danh dự đều có ngoài dự liệu.
“Liêm trinh Thất sát” loại “phấn
chấn” gặp Cự môn của cục “phản bối”,
tuy có xảy ra chuyển biến theo hướng tốt lành, nhưng thường trong
những năm đầu của vận, phải trải qua những trắc trở quá lớn, khiến cho
mệnh tạo khó chịu đựng nổi.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa, thông
thường là vận hạn đặt định nền tảng của sự nghiệp cho “Liêm trinh
Thất sát”. Bản chất “cương bạo” thì nền tảng của sự nghiệp mỏng
yếu, còn bản chất “phấn chấn” thì nền tảng của sự nghiệp dày
chắc, mà còn có địa vị cao.
Ở lưu niên, nếu “Liêm trinh Thất sát”
loại “cương bạo” gặp cung hạn thuộc loại “Hình kị giáp ấn” chủ về chuốc lấy thị phi, vì vậy không
nên cố xuất đầu lộ diện, cũng không nên thay đổi nghề nghiệp, nếu có
tứ sát cùng chiếu, chủ về tai nạn, bệnh tật, hoặc phạm pháp. Cần
phải xem cung Phúc đức và cung Tật ách để xác định rõ thêm tính
chất của cung hạn này.
“Liêm trinh Thất sát” loại “cương
bạo” đến cung hạn Thiên lương độc tọa, thường đây là vận hạn lục thân
bệnh chết hoặc ly tán. Nữ mệnh không nên yêu đương hay kết hôn trong
vạn hạn này, nếu không, sẽ gặp nhiều đau khổ (Thiên lương ở Tý xấu hơn ở Ngọ).
“Liêm trinh Thất sát” loại “phấn
chấn” ưa đến cung hạn Thiên lương độc tọa, tuy có trắc trở, nhưng thời
điểm này là lúc kết giao các mối quan hệ giao tế, hoặc được người
trợ lực.
Nữ mệnh “Liêm trinh Thất sát” không
nên đến cung hạn Thiên lương độc tọa, dù là mang bản chất “phấn chấn”
hay bản chất “cương bạo”, đều chủ bất lợi về lục thân, bản thân phải
chia ly với gia đình, anh chị em bệnh mất.
Thất
sát độc tọa Dần Thân
Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở
Thân, đối nhau với “Tử vi Thiên phủ”, tam phương là Phá quân độc tọa
và Tham lang độc tọa.
Muốn luận giải bản chất của Thất
sát ở hai cung này, cần phải phân biệt nó thuộc loại “cô độc, cao
ngạo”, hay thuộc loại “uy quyền”.
Thất sát thuộc loại “cô độc cao
ngạo” bề ngoài cũng giống như loại Thất sát “uy quyền”, nhưng lại
làm cao, chẳng khiến người ta khâm phục, còn Thất sát “uy quyền” tuy
không hòa đồng với mọi người, giống như xử sự không hòa hợp, nhưng
khiến người giao tiếp thường e ngại e sợ, có phần dè chừng khi ứng
xử.
Thất sát cần phải gặp sao Lộc, mới
có thể giải được tính “cô độc cao ngạo” của nó, khi Tham lang Hóa
Lộc là hòa hoãn nhất, trường hợp Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu
là kế đó, Phá quân Hóa Lộc là kế đó nữa.
Nếu Phá quân Hóa Lộc, mà Thất sát
có các sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc loại tổ hợp “uy quyền”, nhưng
tính hòa hoãn vẫn không đủ, nên vẫn mang tính “cô độc cao ngạo”.
Nếu Phá quân Hóa Quyền, mà Thất
sát có các sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc tổ hợp sao “uy quyền”,
tính “cô độc cao ngạo” tuy có giảm, nhưng biến thành tính chất “chọn
bạn rất nghiêm khắc”.
Nếu Thất sát có các sao Sát Hình
hội chiếu, lại có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật hội hợp, là
thuộc loại “cô độc cao ngạo”.
Nếu Tham lang Hóa Quyền, Thất sát
đồng độ với các sao Sát Hình, không có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp,
cũng thuộc tính “cô độc cao ngạo”.
Hai trường hợp trên, có Xương Khúc
Tả Hữu hội hợp, thì tính “cô độc cao ngạo” tuy có giảm, nhưng không
thành tính “quyền uy”.
“Tử vi Thiên phủ” ở cung đối diện,
rất nên Hóa Khoa, chi phối ảnh hưởng tới Thất sát, chủ về tính “uy
quyền”, nếu Tử vi Hóa Quyền, thì trái lại, sẽ chủ về tính “cô độc
cao ngạo”.
Thất sát tọa mệnh, nên có bản chất
thuộc loại “uy quyền”, nếu mệnh cách thuộc loại “cô độc cao ngạo”
chủ về gặp nhiều tình huống rắc rối trong đời, nhất là nữ mệnh
chủ về hôn nhân bất lợi.
Thất sát đến 12 cung, tính chất rất
phức tạp, mỗi một sao chủ về biến hóa thay đổi khác nhau khi gặp
Thất sát, là có cảnh ngộ khác nhau ngay. Dưới đây là một số nguyên
tắc cơ bản:
Thất sát nặng tính “uy quyền” mà
nhẹ tính “cô độc cao ngạo”, thì nên đến những cung hạn sau:
-
Thiên
đồng độc tọa Hóa Quyền, cung đối diện có Thái âm Hóa Lộc vây chiếu.
-
Thiên
đồng độc tọa, hội Cự môn Hóa Quyền, Thái âm Hóa Khoa.
-
Vũ
khúc độc tọa Hóa Lộc.
-
Vũ
khúc độc tọa, gặp Tham lang Hóa Lộc ở cung đối diện.
-
Thái
dương nhạp miếu, không gặp sao Sát Kị.
-
Phá
quân cát hóa, không có Sát tinh mà có Phụ Tá cát hội hợp.
-
“Tử
vi Thiên phủ” hóa làm sao Khoa, hoặc biến thành Hóa Khoa.
-
Thái
âm Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền hay Hóa Khoa, không có Sát tinh.
-
Tham
lang Hóa Lộc, Hóa Quyền không có Sát tinh.
-
Thiên
lương Hóa Khoa, có sao Phụ Tá cát hội hợp.
Thất sát Hóa Quyền (bốn cung sinh) đến các vận hạn
trên, chủ về một mình phụ trách công việc, hoặc gánh vác trọng
trách, đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, phần nhiều thay đổi
theo hướng tốt lành. Cảnh ngộ cụ thể của nó xem tính chất của các
sao hội hợp để định.
Nếu bản chất Thất sát thuộc loại
“cô độc cao ngạo”, đến các đại hạn hoặc lưu niên đã thuật ở trên,
không chủ về phát lên rồi biến thành hanh thông, chỉ là niên hạn
thuận lợi toại ý. Nguyên cục có các sao Sát Kị hội hợp, chủ về phải
gặp thị phi trước rồi mới được ổn định. Lúc đến đại hạn hoặc lưu
niên Sát Phá Tham, cho dù tổ hợp sao của vận hạn rất đẹp, ắt sẽ có
những khiếm khuyết đáng tiếc trong giao tế xảy ra, xác định nguyên
nhân tại các cung vị lục thân để luận giải.
Thất sát có bản chất “uy quyền”
không nên đến những cung hạn sau đây:
-
Thiên
đồng Hóa Kị, xung lưu niên Thái âm Hóa Kị
-
Vũ
khúc Hóa Lộc, Hóa Quyền, mà có các sao Sát Hình trùng trùng.
-
Thái
dương lạc hãm, mà có các sao Sát Hình đến hội.
-
Phá
quân Hóa Lộc, hội hợp với Tham lang Hóa Kị, có Kình Đà chiếu xạ,
hoặc đồng độ với Đà la.
-
Thiên
cơ Hóa Kị
-
Thiên
cơ Hóa Lộc, xung khởi Cự môn Hóa Kị
-
Thái
âm lạc hãm Hóa Kị
-
Thái
âm Hóa Lộc, xung khởi Thái dương của nguyên cục Hóa Kị
-
Cự
môn Hóa Kị, xung khởi Thái dương Hóa Kị, rất xấu
-
Cự
môn Hóa Lộc, đồng độ với Văn xương Hóa Kị, lại gặp thêm Thiên hình
Đại hao.
-
“Liêm
trinh Thiên tướng” thuộc loại “Hình
kị giáp ấn”.
-
Thiên
lương Hóa Lộc gặp các sao Sát Hao.
Lúc đến các vận hạn thuật ở trên,
Thất sát thuộc loại “uy quyền” cũng sẽ gặp khó khăn, đình trệ. Hễ
Thất sát tọa mệnh, cuộc đời ắt sẽ có một thời kỳ nghịch cảnh, vì
vậy trong những vận hạn này, phải có cái tâm yên định theo cảnh ngộ,
thì tự nhiên giảm nhiều trắc trở, nếu có cái tâm cưỡng cầu, thì sẽ
làm tăng vận xấu.
Tính chất bất lợi có nội dung gì,
xem tính chất của các tổ hợp sao để định.
Thất sát thuộc loại “cô độc cao
ngạo”, mà đến các đại hạn hoặc lưu niên thuật ở trên, thì phần
nhiều sẽ vì quan hệ giao tế mà nảy sinh việc không may mắn, xui xẻo,
cần tham chiếu cùng lúc cung Huynh đệ, Phụ mẫu, Giao hữu, để làm rõ
chi tiết cảnh ngộ thực tế.
Thất
sát và Vũ khúc đồng cung
Thất sát và Vũ khúc đồng cung ở
Mão hoặc ở Dậu, cung đôi diện là Thiên phủ, cung tam phương có “Tử vi
Phá quân” và “Liêm trinh Tham lang”.
Muốn luận giải cấu tạo hệ tinh bàn
này, cần chú ý phân biệt xem chúng thuộc loại “quyết đoán” hay thuộc
loại “nông cạn”.
Thực ra, “quyết đoán” sáng suốt và
suy nghĩ “nông cạn” chỉ cách nhau một đường ranh, bởi vì “Vũ khúc
Thất sát” thuộc loại suy nghĩ “nông cạn”, bề ngoài vẫn giống như
người “quyết đoán” sáng suốt, trong lúc nội tâm do dự, thiếu quyết
đoán, vẫn có thể đưa ra một quyết định sáng suốt và nhanh chóng,
nhưng thường thường là quyết đoán sai lầm và cần phải chắp vá bổ
xung. Cho nên, nếu nhìn từ bề ngoài để phân biệt thì khó mà nhìn ra
được.
“Vũ khúc Thất sát” thuộc loại
“quyết đoán” sáng suốt, thì phần nhiều đều có chừa đường để lui,
còn loại người suy nghĩ “nông cạn”, thì phần nhiều là bạc tình, do
đó đời người cũng khá cô lập. Điều này có thể dùng để phân biệt,
khi luận giải nhóm tinh hệ này.
Luận giải tính chất của “Vũ khúc
Thất sát”, chỉ cần xem tinh hệ này có gặp sao Lộc hay không, bất kể
được Hóa Lộc hay gặp Lộc tồn đều được. Nếu có sao Lộc, mà còn gặp
Tả phụ Hữu bật hội chiếu, thì thuộc vào loại “quyết đoán sáng
suốt”. Nếu không có Tả phụ Hữu bật, mà còn không gặp sao Lộc, trái
lại, có Sát tinh hội chiếu, thì thuộc vào loại “suy nghĩ nông cạn”.
Lấy các sao ở cung hội hợp để nói,
nếu hệ “Tử vi Phá quân” có Sát tinh đồng độ, nhất là Đà la, thiflamf
mạnh thêm bản chất “suy nghĩ nông cạn” của hệ “Vũ khúc Thất sát”;
nếu không có Sát tinh, mà có các sao Phụ Tá hội hợp, thì có thể
gây ảnh hưởng cho hệ “Vũ khúc Thất sát” thành bản chất “quyết đoán
sáng suốt”.
Hệ “Liêm trinh Tham lang” cũng không
nên đồng độ với Đà la, đặc biệt khi phải mượn hệ này để nhập cung
Phúc đức an sao, sẽ gây ảnh hưởng tới hệ “Vũ khúc Thất sát” càng thêm
quan trọng.
Văn xương, Văn khúc có khả năng điều
hòa tính chất “suy nghĩ nông cạn” của hệ “Vũ khúc Thất sát”, điều
kiện tốt nhất là khi Văn xương, Văn khúc đồng cung với Thiên phủ ở
cung đối diện chiếu về hiệp trợ, trường hợp này tốt hơn khi Xương
Khúc đồng độ ở một cung với hệ “Liêm trinh Tham lang”. Nguyên nhân chủ
yếu là vì hệ “Liêm trinh Tham lang” không ưa Xương Khúc cùng bay đến
một cung, sẽ mang tính đào hoa, chi phối gây ảnh hưởng đến lực “quyết
đoán sáng suốt” của hệ “Vũ khúc Thất sát”.
Cung độ Thái dương tọa thủ, nếu
nhập miếu thì có lợi cho hệ “Vũ khúc Thất sát”. Nhưng, trường hợp
mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” nhập hạn cung độ này, thì lại nảy sinh
hay oán trách vô cớ, khiến cho tình hình quan hệ giao tế diễn biến
xấu đi, sẽ ảnh hưởng đến hậu vận. Nếu Thái dương lạc hãm, hệ “Vũ
khúc Thất sát” thuộc tính chất nào cũng đều bất lợi. Hệ “Vũ khúc
Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” cũng dễ chuốc lấy thị
phi, bị oán trách trong vận hạn này. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc
loại “suy nghĩ nông cạn”, nếu có Kình dương đồng độ, sẽ không dễ trụ
nổi ở nơi làm việc, lại gặp thêm các sao Kị Sát thì còn chịu thêm
cái họa gia nghiệp chao đảo.
Cung hạn Thiên cơ độc tọa, nếu gặp
Hóa Kị, nhất là lúc Thiên đồng và Thái âm biến thành Hóa Kị hội
chiếu lưu niên, đối với hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ
nông cạn”, đây là năm mất cơ hội, phá tài. Mệnh cách thuộc loại
“quyết đoán sáng suốt” chỉ cần phòng thủ thì có thể tránh được
tổn thất.
Nếu Vũ khúc của nguyên cục Hóa Kị,
thì đại kị đến cung hạn Thiên cơ tọa thủ, dù có cơ hội, ắt cũng bị
phá tán, thất bại, cạnh tranh không lành mạnh, hai bên công kích lẫn
nhau.
Đến cung hạn Thiên phủ tọa thủ, hệ
“Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” không nên đến, nếu
Thiên phủ lại là “kho lộ”, “kho trống”, thì thường là đại hạn hoặc
lưu niên chủ về nạn tai, bệnh tật trọng đại, sự nghiệp phá sản. Hệ
“Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” mà đến cung hạn
này cũng phải đề phòng trộm cướp.
Cung hạn Thiên phủ thông thường bất
lợi cho mệnh cách “Vũ khúc Thất sát”, nếu lưu niên hặp cung hạn này,
có lưu Lộc hoặc lưu Hóa Lộc chiếu xạ, thì mới là điềm cát.
Hệ “Vũ khúc Thất sát” ưa đến cung
hạn Thái âm tọa thủ, nếu Thái âm nhập miếu cát hóa thì càng ưa
thích. Nếu hội các sao Hình Kị, mệnh cách thuộc loại “suy nghĩ nông
cạn” chủ về vì chắp vá điều sai lầm mà gây nên tổn thất nghiêm
trọng. Đạo “xu cát tị hung” là biết
có sai lầm thì lập tức dừng ngay kế hoạch, càng kéo dài thì tổn
thất càng lớn.
Thái âm lạc hãm bất lợi cho hệ “Vũ
khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt”, chủ về vì một
quyết định trọng đại mà việc khó lưỡng toàn, ắt sẽ có một phía
bất mãn. Đối với mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” thì lại không có
khiếm khuyết đáng tiếc này, nhưng nên “tĩnh” không nên “động”, “động”
thì gây nên tổn thất, nhất là lúc Thái âm Hóa Kị gặp Đà la đồng
độ, tuyết đối không nên bảo lãnh cho người khác, nếu không sẽ liên
lụy chịu trách nhiệm trả thay cho họ.
Cung hạ Cự môn tọa thủ, nếu thành
cách “Thạch trung ẩn ngọc”, thì
loại mệnh cách “quyết đoán sáng suốt” rất nên đến, nếu Cự môn lại
được cát hóa và hoặc gặp Cát tinh, thì đây là lưu niên hay đại hạn
thành tựu sự nghiệp lớn. Nếu Cự môn cùng ở một cung với Văn xương
Văn khúc mà không có cát hóa, thì đây là vận trình có tính chuyển
biến, xem xét kỹ các sao hội hợp để định sau khi chuyển biến thay
đổi, thì cát hung sẽ như thế nào.
Mệnh cách thuộc loại “suy nghĩ nông
cạn” đến cung hạn Cự môn thuộc cách “Thạch
trung ẩn ngọc”, vận hạn cũng không cát tường, thường sai lầm ở
giai đoạn sau cùng, hoặc vì quyết định sai lầm mà bị chỉ trích, oán
trách.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa, nếu
Thiên tướng thuộc cách “Hình kị
giáp ấn”, thì hệ “Vũ khúc Thất sát” sẽ cảm thấy bị áp lực,
nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” thì khá
dễ đối phó, tìm được biện pháp để giải tỏa. Nếu mệnh cách nguyên
cục thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” mà gặp đại hạn hoặc lưu niên này,
thì áp lực tinh thần càng nặng, chủ về thất bại.
Cung hạn Thiên tướng thuộc cách “Tài ấm giáp ấn”, thì bất kể mệnh
cách thuộc bản chất nào, cũng đều chủ về “mọi toan tính chỉ phí
sức”. Nếu cung hạn Thiên tướng có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu
bật đồng độ hoặc hội chiếu, thì lại là cơ hội tốt để định hình
sự nghiệp một đời.
Cung hạn hệ “Thiên đồng Thiên lương” tọa
thủ, Thiên lương không nên Hóa Khoa và gặp sao Hình, nếu cung có tính
chất quá cô độc và hình khắc, thì hệ “Vũ khúc Thất sát” mà gặp
cung hạn này, phần nhiều có tang. Nếu hệ “Thiên đồng Thiên lương” hội
hợp với các sao đào hoa, mà Thiên đồng Hóa Lộc, thì e rằng tuổi trẻ
đắc chí mà từ đó đắm chìm trong tửu sắc.
Ba cung hạn “Vũ khúc Thất sát”, Liêm
trinh Tham lang” và “Tử vi Phá quân”, là lưu niên hay đại hạn có tính
chuyển biến cực lớn đối với mệnh cách hệ “Vũ khúc Thất sát” tọa
mệnh.
Nhưng hễ gặp Phá quân Hóa Lộc thì
Tham lang ắt cũng Hóa Kị, trong tình hình này, chỉ có lợi cho mệnh
cách “quyết đoán sáng suốt”, còn mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” thì
bất lợi.
Thất
sát độc tọa Thìn Tuất
Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở
Tuất, cung đối diện sẽ là hệ “Liêm trinh Thiên phủ”, tam phương có Tham
lang độc tọa và Phá quân độc tọa hội chiếu.
Muốn luận giải tính chất của Thất
sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cần phải phân biệt rõ bản chất
tính lý của Thất sát là “lý tưởng” hay “ảo tưởng”.
Trong thực tế, “lý tưởng” không nhất
định sẽ tốt hơn “ảo tưởng”. Bởi vì “lý tưởng” quá cao, không phối
hợp được với hiện thực, cũng là khiếm khuyết đáng tiếc của đời
người. Còn người rơi vào “ảo tưởng”, tuy những suy nghĩ của họ không
thể thực hiện, nhưng trên thực tế họ có thể rcanhr ngộ tốt đẹp, lúc
này, họ cũng cho rằng bản thân có “lý tưởng” nhưng không thực hiện
được mà thôi.
Ảnh hưởng tối quan trọng của Thất
sát tọa thủ ở Thìn Tuất, đó là hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở cung đối
diện gây ảnh hưởng hiệp trợ hay là ức hiếp. Nếu hệ này thuộc tính
chất cao thượng, thanh nhã, lúc này Thất sát sẽ có khuynh hướng “lý
tưởng”, trở thành người có mục tiêu để theo đuổi, dù vất vả khổ
cực vẫn không từ nan.
Nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” hội
hợp với các sao Sát Kị, dù đồng thời có Cát tinh, được cát hóa,
cũng gây ảnh hưởng đến khí chất của Thất sát mà trở thành dung
tục, hơn nữa thường là người không tưởng, không thực tế; cảnh ngộ
đời người nhiều biến động thay đổi, mà phần nhiều là không cần
thiết, có lúc thậm chí những thay đổi không cần thiết đó lại là lý
tưởng theo đuổi của đời người, thực ra đây là mục đích che đậy
khuyết điểm của bản thân.
Ngoại trừ hệ “Liêm trinh Thiên phủ”,
hai sao Phá quân và Tham lang cũng ảnh hưởng đến khí chất củ Thất
sát. Tham lang Hóa Kị khiến cho Thất sát dễ rơi vào không tưởng. Phá
quân Hóa Lộc tuy có gây ảnh hưởng đến Thất sát bệnh không tưởng,
nhưng vẫn có lúc đối diện với hiện thực.
Tham lang mà Hóa Lộc, ắt Thất sát
sẽ bị Đà la chiếu xạ hoặc đồng độ với Đà la, nếu cung độ của Thất
sát lại gặp Địa không Địa kiếp, chủ về mệnh cách dễ rơi vào không
tưởng.
Lấy bản thân Thất sát để nói, theo
truyền thừa của Trung Châu phái, nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Thìn
chủ về nhiều không tưởng, hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Tuất chủ về
nhiều “lý tưởng”. Ảnh hưởng của hệ này, biến khí chất của Thất
sát độc tọa ở Thìn thành mệnh cách “lý tưởng”, còn Thất sát độc
tọa ở Tuất thành mệnh cách “ảo tưởng”. Hai tính chất này không có
liên quan với tình trạng “miếu, vượng, lợi, hãm” của các sao.
Sau khi nắm được đặc trưng của Thất
sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, còn phải xem xét tình huống của
Tử vi ở cung Phúc đức. Nếu là “bách
quan triều củng” mà không gặp các sao Sát Kị Hình, thì Thất sát
nhờ đó mà trở thành mệnh cách “lý tưởng”. Nếu gặp các sao Sát Kị
Hình, , thì “lý tưởng” khá tầm thường, đời người phần nhiều phải
dốc toàn lực để tranh giành. Nếu Tử vi là “tại dã cô quân”, thì bản chất của Thất sát là không
tưởng, nếu gặp các sao Sát Kị Hình ở cung Phúc đức, thì giống như
thương binh ở chiến trường mơ làm nguyên soái. Do những điều “ảo
tưởng” không thể thực hiện, đời người lại nhiều gian khổ, vì vậy
thưởng trở thành người phẫn thế ghét đời, hoặc tự xem mình là
người cô độc thanh cao. Những “ảo tưởng” không thể thực hiện này,
giống như sức mạnh của roi vọt thúc đẩy người ta tiến tới, khi đến
cực hạn sẽ khiến mệnh cách trở thành kẻ trốn đời.
Thất sát thuộc loại “lý tưởng”, ưa
đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc tọa, nếu
các sao Phụ Tá cát, có thể trở thành sức mạnh để thực thi “lý
tưởng”, dù có một hai Sát tinh cũng không ảnh hưởng gì nhiều, càng
trở ngại càng khiến mệnh cách phấn đấu mạnh hơn, trở thành sức
mạnh chuyên nhất theo đuổi mực tiêu. Trường hợp Thất sát ở Thìn được
cát hóa thì tình hình càng đúng như vậy. Có lúc, nhờ Sát tinh mang
lại trợ lực, khiến “ảo tưởng” va chạm với hiện thực, mà biến thành
“lý tưởng”.
Mệnh cách Thất sát “ảo tưởng”,
không ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc
tọa. Dù được cát hóa, cũng dễ xảy ra những biến động thay đổi không
cần thiết. Nếu lại gặp các sao Sát Kị Hình, thì lại thay đổi một
cách triệt để và toàn diện, đó là do bất mãn với hiện thực nên
sinh lòng oán trách và oán hận.
Hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Thìn bất
lợi đối với Thất sát, hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Tuất thì có lợi
hơn.
Nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” gặp
các sao đào hoa, còn kèm thêm sao Hình, thì Thất sát thuộc loại “ảo
tưởng” mà đến cung hạn này, sẽ vì hành động mù quáng mà gây sự cố
đáng tiếc, còn Thất sát thuộc loại “lý tưởng’ thì không sao. Các sao
đào hoa này không chuyên chủ về tình cảm nam nữ.
Thiên phủ có sao Lộc sẽ có lợi đối
với Thất sát. Nếu Thiên phủ là “kho trống”, hay “kho lộ”, khiến Thất
sát thuộc loại “ảo tưởng” càng tăng nặng “ảo tưởng”, dễ lâm vào
tình huống rắc rối khó tìm được lối thoát; còn Thất sát thuộc
loại “lý tưởng” thì phần nhiều cảm thấy giữa lý tưởng và hiện
thực xung đột nhau, chỉ cần gặp Phụ diệu, đặc biệt là Thiên khôi
Thiên việt, thì sẽ điều hòa được lý tưởng và hiện thực.
Hệ “Thiên đồng Cự môn” bất kể là cát
hay hung, đều bất lợi đối với Thất sát loại “ảo tưởng”, khi Cự môn
Hóa Kị thì gây phẫn thế, khi Thiên đồng Hóa Kị thì gây trầm luân,
tình hình khả quan hơn thì lạnh nhạt với lục thân, ít hòa hợp hoặc
sinh ra tâm lý ngăn cách. Hệ “Thiên đồng Cự môn” có sao đào hoa đồng
cung, thì người Thất sát thủ mệnh sẽ đau khổ vì tình, rơi vào “ảo
tưởng” rất nặng.
Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” ưa
đến cung hạn “Thái dương Thiên lương”, gặp Cát tinh, là vận tốt để
thực hiện lý tưởng. Nếu cung hạn “Thái dương Thiên lương” lạc hãm,
không có Cát tinh tụ tập, lý tưởng cũng khó thực hiện được hoàn
toàn, cần phải thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh. Thất sát loại
“ảo tưởng” đến cung hạn “Thái dương Thiên lương” lạc hãm, là điềm ứng
có sự vọng động, nếu gặp Thái dương Hóa Kị, tình hình càng thêm
nghiêm trọng. Đến cung hạn “Thái dương Thiên lương” mà gặp Cát tinh,
thì cảnh ngộ cuộc đời lại trở thành khá đẹp, nhưng đây không phải
là cơ hội để thực hiện những “ảo tưởng”, nếu thực hiện những “ảo
tưởng”, sẽ tự tìm đến buồn phiền, biến thành vận thế phá hoại bản
thân.
Cung độ Tử vi độc tọa, có lợi đối
với Thất sát thuộc loại “lý tưởng”, bất lợi đối với Thất sát loại
“ảo tưởng”. Thất sát không bị kềm chế, chủ về rơi vào “ảo tưởng”.
Khi Tử vi hội hợp với các Cát tinh, dễ trở thành người lớn mật làm
càn; khi Tử vi gặp các sao không cát tường, chủ về người hiểu rõ
việc mình làm nhưng thường gặp trở ngại.
Cung hạn Thiên cơ độc tọa, khi Thiên
cơ cát hóa Lộc Quyền Khoa, thì có lợi đối với Thất sát, dù mệnh
cách loại “ảo tưởng” vẫn có thể thích nghi với hoàn cảnh. Nếu Thiên
cơ Hóa Kị, lại gặp các sao Sát Hình, thì bất lợi đối với Thất
sát, dù là loại mệnh cách “lý tưởng”, cũng dễ vì sai lầm nhất
thời mà gây trở ngại cho việc thực hiện mục đích lý tưởng của
mình.
Tử Vi Đẩu Số xem Thất sát là sao
mấu chốt của sự biến động thay đổi !
Khi luận giải không nên ngộ nhận đối
với Thất sát, tin rằng Thất sát là sao tích cực, mà xem thường mặt
tiêu cực của sao Thất sát.
Hiện ta đang nói về Thất sát độc
tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, chú ý đến bản chất “lý tưởng” và “ảo
tưởng” của nó, tức cần đồng thời chú ý đến mặt tiêu cực của nó.
Bởi vì, khi “lý tưởng” có thể thực hiện được, sẽ dễ rơi vào trạng
thái tiêu cực. Lúc “ảo tưởng” mà bất mãn, cũng dễ rơi vào trạng
thái tiêu cực.
Ở trên, ta đề cập đến vấn đề bản
chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất có quan hệ mật
thiết với sao Tử vi ở cung Phúc đức, chú ý đến mặt tiêu cực của
nó. Nếu hệ Tử vi thuộc loại tích cực, thì trạng thái của Thất sát
rơi vào tiêu cực chỉ là nhất thời; còn nếu hệ Tử vi là tiêu cực,
thì phải chú ý, tính tiêu cực sẽ trở thành bản chất của Thất sát
tọa mệnh.
Thất sát thuộc loại tiêu cực, không
nên đến cung hạn hoặc lưu niên có quá nhiều Cát tinh hội hợp. Bởi
vì, không những không thể thay đổi thành tích cực, trái lại, còn vì
tình huống thuận hay nghịch của vận trình, mà hiểu lầm tiêu cực
chính là bản chất. Cũng không nên đến vận hạn quá nhiều Hung tinh
hội hợp, bởi vì sự trắc trở, gập gềnh của đời người có thể làm tăng
tính tiêu cực của nó. Sự “trung hòa” đối với mẫu người này là rất
quan trọng.
Tử
vi và Thất sát đồng cung
Tử vi và Thất sát đồng độ ở Tị
hoặc ở Hợi, cung đối diện là Thiên phủ, cung tam phương là “Vũ khúc
Tham lang” và “Liêm trinh Phá quân” hội hợp.
Mệnh bàn loại này cấu tạo thuần
tính vật chất, các sao hội hợp mạnh mẽ, do đó cát hung thường
thường chỉ cách nhau một đường ranh.
Muốn luận giải bản chất của hệ
“Tử vi Thất sát” ở Tị hoặc ở Hợi, cần phân biệt tính chất cực đoan
của chúng, là thuộc vào loại “quyền uy” hay thuộc vào loại “hoành
hành bá đạo”.
Mệnh cách thuộc loại “quyền uy”,
phần nhiều phát triển theo xu hướng chính đạo, chính giới, chính
tắc. Trường hợp mệnh cách “hoành hành bá đạo” dễ đi vào con đường
lầm lạc. Thông thường, người có hệ “Tử vi Thất sát” thủ mệnh, không
có tính cực đoan mạnh mẽ như vậy, ở đây chỉ là so sánh hai loại
khuynh hướng trong tính chất mà thôi.
Bản thân hệ “Tử vi Thất sát” đã có
tính chất quyền lực, vì vậy không nên làm mạnh thêm tính chất quyền
lực của nó, nếu không sẽ dễ biến thành “hoành hành bá đạo”. Lúc
Tử vi Hóa Quyền, cần phải có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật,
Thiên khôi, Thiên việt hội hợp, mới có thể tiêu trừ khí “hoành hành
bá đạo”, lại không có các sao Sát Hình tụ hội, thì mệnh cách “Tử
vi Thất sát” thuộc vào loại “quyền uy”.
Nếu Tử vi không Hóa Quyền, mà có
các sao Phụ Tá hội hợp, dù gặp Hỏa tinh Linh tinh, mệnh cách cũng
không trở thành tính chất “hoành hành bá đạo”, mà mệnh cách chủ về
“quyền uy”.
Nhưng nếu không có các sao Phụ Tá
hội hợp, thì tuyệt đối không nên gặp Sát tinh. Nếu gặp hệ “Hỏa tinh
Đà la”, hoặc gặp hệ “Kình dương Linh tinh” đồng độ hoặc hội chiếu,
thì hệ “Tử vi Thất sát” biến thành “hoành hành bá đạo”, đời người
sẽ gặp nhiều trắc trở.
Cung đối diện là Thiên phủ rất nên
là can Canh Hóa Khoa, nếu không có Sát tinh cùng bau đến, thì có thể
giải được tính chất “hoành hành bá đạo” của hệ “Tử vi Thất sát”.
Dù không thể nhuyễn hóa thành mệnh cách loại “quyền uy”, nhưng ít
nhiều cũng giảm hung hiểm, cảnh ngộ đời người do đó cũng nhiều
thuận lợi hơn.
Cung tam phương tương hội là hệ “Vũ
khúc Tham lang”, trường hợp tham lang Hóa Lộc là tốt nhất, Vũ khúc
Hóa Lộc là tốt kế đó. Khi Vũ khúc Hóa Lộc vẫn khiến cho hệ “Tử vi
Thất sát” nhiều vất vả khổ lụy, không bằng Tham lang Hóa Lộc chủ về
được hưởng thụ.
Cùng một lý, hệ “Liêm trinh Phá quân”
cũng ưa Liêm trinh Hóa Lộc hơn là Phá quân Hóa Lộc., khi Phá quân Hóa
Lộc còn vất vả hơn Vũ khúc Hóa Lộc.
Bản thân hệ “Tử vi Thất sát” dù
không có tính chất “hoành hành bá đạo”, cũng không nên hội với sao
Hóa Quyền, khi Tham lang Hóa Quyền ảnh hưởng ít hơn Phá quân Hóa
Quyền, đó là vì có Liêm trinh Hóa Lộc điều hòa, nên cũng không xấu.
Nếu Vũ khúc Hóa Quyền thì không nên kèm Sát tinh, khi kèm Sát tinh
sẽ ảnh hưởng khiến hệ “Tử vi Thất sát” thành “hoành hành bá đạo”,
cho dù Thiên phủ Hóa Khoa cũng khó mà điều hòa nổi. Vì vậy, không
nên gặp can Nhâm vì có Tử vi Hóa Quyền và Thiên phủ Hóa Khoa.
Tử vi Hóa Khoa, chỉ cần một hai Phụ
Tá diệu cát hội hợp, thì mệnh cách đã thuộc loại “quyền uy”, mà
không phải thuộc loại mệnh cách “hoành hành bá đạo”. Khi có các sao
hội hợp là Văn tinh, chủ về phong thái nho nhã, lúc này gặp Hỏa
tinh, Linh tinh cũng hóa thành khí “tương hòa”, khiến mệnh cách “Hỏa
Tham”, “Linh Tham” mới thành hữu dụng. Nếu không, sau khi hoạch phát sẽ
rất dễ hoạch phá.
Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại
“quyền uy” chủ về dễ thành công, đời người có nhiều thuận lợi toại
ý, dù có gặp trắc trở cũng không hung hiểm; nếu thành mệnh cách
“hoành hành bá đạo”, chủ về dễ lên dễ xuống, nan tai, bệnh tật cũng
nhiều.
Cung hạn “Liêm trinh Phá quân”, thích
hợp với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà không thích
hợp với hệ “Tử vi Thát sát” loại “hoành hành bá đạo”, mệnh cách
thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này có chỗ để tạo dựng sự
nghiệp, con mệnh cách lọa “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này,
dù được cát hóa, ở đại hạn thì không cát lợi, ở lưu niên thì lập
tức bị trắc trở hoặc phá tán, thất bại. Nhất là lúc hội “Hỏa
Tham”, “Linh Tham”, thành bại thường thường xảy ra rất nhanh, trong đại
vận 10 năm có thể xảy ra nhiều sự cô dồn dập.
Nếu gặp các sao Sát Kị Hình tụ
hợp, hoặc bị Thiên tướng thuộc loại “Hình
kị giáp ấn” xung chiếu, mệnh cách thuộc loại “quyền uy” đến cung
hạn này, chủ về bị áp lực cạnh tranh, lúc này, nên xem xét hậu vận
để định thời cơ tiến thoái; mệnh cách thuộc loại “hoành hành bá
đạo” mà đến cung hạn này, tuyệt đối không nên gây ra thị phi, nếu
không, ắt sẽ xảy ra sóng gió rất lớn.
Nếu Liêm trinh Hóa Kị của nguyên cục
xung Vũ khúc Hóa Kị của đại vận; hoặc Vũ khúc Hóa Kị của nguyên
cục xungTham lang Hóa Kị của vận hạn, còn xung Liêm trinh Hóa Kị của
lưu niên, lại gặp Kình dương Đà la trùng điệp xung hội, còn có Thiên
hình Đại hao, không có sao Lộc giải cứu, hoặc sao Lộc nhẹ mà sao đào
hoa nặng, thì đây là năm có nhiều nguy cơ, thường thường vì thất bại
mà có ý niệm coi thường mạng sống, nhất là nữ mệnh.
Cung hạn Thiên phủ độc tọa, là “kho
lộ”, “kho trống”, thì bất kể hệ “Tử vi Thất sát” thuộc vào loại
nào, cũng đều không nên đến. Dù là lưu niên phần nhiều đều bị phá
tán thất bại. Mệnh cách thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung
hạn này, còn chủ về bị suy sụp nhanh chóng.
Thiên phủ là “kho đầy”, lại không có
Sát tinh tụ hội, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung
hạn này, mới chủ về bình hòa, thuận lợi toại ý; Còn hệ “Tử vi
Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, thì
cần phải giữ mình.
Thiên phủ Hóa Khoa, có sao Lộc, gặp
các sao Ân quang, Thiên quý, Đài phụ, Phong cáo, Tam thai, Bát tọa, hệ
“Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà đến cung hạn này, chủ về
sẽ có vinh dự đặc biệt.
Do tính chất không tương thích, vì
vậy khi hệ “Tử vi Thất sát” đến lưu niên Thiên phủ thủ mệnh của niên
hạn, nguyên tắc thông thường không được tiến thủ.
Cung hạn “Thiên đồng Thái âm” đồng
độ, thông thường hệ “Tử vi Thất sát” ưa đến. Do hệ “Tử vi Thất sát”
chủ về vất vả, khi đến cung hạn “Thiên đồng Thái âm” thì có thể
được yên tĩnh, vì vậy được xem là vận trình hưởng thụ của hệ “Tử
vi Thất sát” thuoock loại “quyền uy”. Nhưng Thiên đồng không nên Hóa Kị,
sẽ chủ về muốn yên mà không được yên, thường thường là điềm tượng
sức khỏe không tốt, nhất là cần lưu ý bệnh tim mạch.
Hệ “tử vi Thất sát” đến cung đại
vận “Thiên đồng Thái âm”, chủ về gặp nhiều sóng gió, nhưng vận thế
vẫn tốt. Thiên đồng cũng không nên Hóa Kị, nếu không, cần phải đề
phòng bệnh tim mạch và bệnh hệ thần kinh.
Thái âm Hóa Kị của nguyên cục, nếu
xung hội với Thiên cơ Hóa Kị của đại vận, đây là cung hạn mà hệ “Tử
vi Thất sát” không ưa đến, chỉ nên ở yên, phòng thủ, không thể hành
động. Có điều, sống ở đời có lúc cũng bị phỉ báng, nói xấu, bêu
rếu hay oán trách, hoặc bị người dưới quyền xâm phạm tài vật.
Cung hạn “Vũ khúc Tham lang” đồng
độ, thích hợp với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, mà
không thích hợp với loại “hoành hành bá đạo”. Hệ “Tử vi Thất sát”
thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, thường thường là vận thế
hưng thịnh, được cát hóa và có các Cát tinh tụ hội thì càng tốt,
chỉ cần không gặp các sao Sát Kị, thì chủ về làm ăn bình thường.
Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn
này, dù là lưu niên, cũng chủ về gặp nhiều cạnh tranh, rắc rối, thị
phi, nếu thành cách “Hỏa Tham” cũng phải lo nghĩ, một phen hú vía
mới kiếm được tiền.
Nếu được cát hóa và có Cát tinh
tụ hội, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này
sẽ phát lâu dài, nhưng đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại
“hoành hành bá đạo” thì lại không được dài lâu.
Nếu cung hạn có các sao Sát Kị Hình tụ hội, đối với hệ “Tử
vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, chủ về bị cạnh tranh, thu hoạch
không được như lý tưởng; Còn đôi với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại
“hoành hành bá đạo” thì phần nhiều là thất bại, nếu gặp Đà la
đồng độ, còn chủ về hành động của bản thân gây ra thị phi, phải
chịu nghịch cảnh.
Nếu Tham lang Hóa Kị xung khởi Liêm
trinh Hóa Kị, gặp Sát tinh hội hợp, cần đặc biệt chú ý họa vì tửu
sắc mà gây ra thị phi.
Cung hạn “Thái dương Cự môn” đồng độ,
hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” không ưa Thái
dương quá vượng, cho nên khi đến cung hạn ở Dần có hệ “Thái dương Cự
môn” tọa thủ, thường thường dễ chuốc lấy thị phi và gây họa, đến
cung hạn ở Thân thì có đỡ hơn. Đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc
loại “quyền uy” thì ngược lại, lại ưa cung hạn ở Dần mà không ưa cung
hạn ở Thân, mệnh cách “quyền uy” nhập hạn ở Dần chủ về hưng phát
tốt hơn.
Nếu cung hạn “Thái dương Cự môn” có
các sao Sát Kị Hình tụ tập, đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc
loại “quyền uy” chủ về hình khắc lục thân, khi hợp tác với người
khác rất bất lợi; Còn đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành
hành bá đạo” thì rất sợ phạm phải hình pháp, kiện tụng, rất nên
chú ý.
Đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc
loại “quyền uy”, thì khi Cự môn Hóa Lộc sẽ là “hiệu lệnh”, mang lại
giá trị tối ưu hơn Thái dương Hóa Lộc; Còn đối với hệ “Tử vi Thất
sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo”, thì Thái dương Hóa Lộc sẽ là
danh vọng, mang lại giá trị tối ưu hơn Cự môn Hóa Lộc. Đây cũng là
nguyên tắc thông thường.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa mà gặp
cách “Hình kị giáp ấn”, đây là
vận trình bị áp lực và trắc trở của hệ “Tử vi Thất sát” thuộc
loại “hoành hành bá đạo”, lúc này mệnh cách rất ngại có Phá quân
Hóa Lộc đến xung, chủ về có cơ hội nhiều và trắc trở cũng nhiều,
thường thường việc sắp thành lại hỏng. Nhưng hệ “Tử vi Thất sát”
thuộc loại “quyền uy” mà gặp hạn “Hình
kị giáp ấn” thì lại càng dễ phát đạt, thường thường là vận
trình có tính đột phá, ở lưu niên cũng chủ về cát lợi, tuy phải
gặp oán trách nhiều mà thôi.
Gặp hạn “Tài ấn giáp ấn”, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành
hành bá đạo” cần phải an phận giữ mình thì sẽ tiến bộ, nếu vận
dụng cơ tâm sẽ chuốc thị phi, là nhân tố khiến cho hậu vận xảy ra
phá tán, thất bại.
Thiên tướng có sao Lộc bị Kình dương
Đà la giáp cung, nếu không có Cát tinh phù trợ, hệ “Tử vi Thất sát”
đến cung hạn này, đều nên “tĩnh” mà không nên “động”, nếu “động” sẽ
gây tồn thất.
Cung hạn “Thiên cơ Thiên lương” đồng
độ, cũng có lợi đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”,
mà bất lợi đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “bá đạo”,
thường thường là bất lợi đối với lục thân, gặp hạn đời cô lập.
Cung hạn “Thiên cơ Thiên lương” được
cát hóa và có Cát tinh, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”
đến, sẽ chủ về tự lập, còn hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “bá
đạo” đến hạn này, sẽ chủ về đi vào con đường lầm lạc, nếu cung hạn
có các sao Sát Kị Hình Hao hội hợp, thì mệnh cách “bá đạo” càng
dễ vì cuộc đời chuyển biến mà gặp cảnh khốn khó, lưu lạc, rời xa
người thân, bạn bè.
Thiên lương Hóa Lộc sẽ bất lợi đối
với người có mệnh cách “bá đạo”, chủ về loại người dùng thủ đoạn
bất chính để tranh đoạt, đối với người có mệnh cách “quyền uy” thì
rất ưa Thiên cơ Hóa Quyền, thêm Cát tinh thì không có gì bất lợi.
Khi Thiên cơ Hóa Kị, bất kể loại
người mệnh cách “quyền uy” hay loại người mệnh cách “bá đạo”, đều
không nên đến cung hạn này, đối với người có mệnh cách “quyền uy”,
có thể xem đây là thời kỳ tôi luyện bản thân; còn đối với người có
mệnh cách “bá đạo”, vì biến thái tâm lý, dẫn đến làm càn mà gây ra
họa.
Cảm ơn chủ blog.
Trả lờiXóaBấy lâu nay tôi đã tìm cầu mong được gặp bài viết như vậy. Cuối cùng cũng toại ý. Cảm ơn chủ blog nhiều lắm.
Rất cảm ơn chủ Blog !
Trả lờiXóaNhưng thật sự mình tài hèn nên không thể đọc và hiểu sau mặc dù có người đồng cung Liêm Trinh Thất Sát nhưng mình đang không thể lý giải được cho con người này vận hạn mong chủ Blog có thể giúp giùm được không?
mình gửi chủ blog hy vọng có hồi âm: Nam - sinh 10h 45' ngày 6/12/81 dương lịch
địa chỉ mail: vudongvn@gmail.com
Chân thành cảm ơn !!!
Rất cảm ơn chủ Blog !
Trả lờiXóaNhưng thật sự mình tài hèn nên không thể đọc và hiểu sau mặc dù có người đồng cung Liêm Trinh Thất Sát nhưng mình đang không thể lý giải được cho con người này vận hạn mong chủ Blog có thể giúp giùm được không?
mình gửi chủ blog hy vọng có hồi âm: Nam - sinh 10h 45' ngày 6/12/81 dương lịch
địa chỉ mail: vudongvn@gmail.com
Chân thành cảm ơn !!!
rất mong tác giả có thể nói thêm về Thất Sát cư cung an Thân (cũng là cung Quan Lộc độc tọa tại Thân, mệnh Tham Lang, Phá Quân hóa quyền, Tử Phủ có Lộc tồn).
Trả lờiXóaRất hay ! Tác giả thêm bài về tính chất truyền tinh của vợ chồng , ảnh hưởng thế nào nhé. Tôi rất mong chờ , cảm ơn chủ blogspot
Trả lờiXóaRất hay . Mình cung thê thất sát tại thân , lấy vợ có cung thân (mệnh) thất sát tại ngọ may mà tuổi đinh có lộc tồn đồng cung
Trả lờiXóaNhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóa