Sao Tử
vi độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, nếu là trường hợp “bách quan triều củng”, thì rất ưa đến cung mệnh đại hạn
và cung mệnh lưu niên được Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa.
Nếu Tử vi Hóa Quyền hoặc Tử vi Hóa
Khoa ở nguyên cục mà không có “bách
quan triều củng”, thì ưa đến cung mệnh đại hạn hoặc cung mệnh lưu
niên có các sao Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu
bật hội hợp.
Nếu nguyên cục vốn là cách “tại dã cô quân”, đến niên hạn dù
được Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì cát lợi cũng nhỏ, e rằng
chỉ là nhất thời đắc ý.
Nếu nguyên cục vốn là cách “vô đạo cô quân”, lại đến niên hạn
có các sao Sát Kị tụ tập, thường chủ về tai họa, phần nhiều là tự
chuốc lấy họa.
Phàm là Tử vi độc tọa thủ mệnh,
đều ưa đến cung hạn Thiên phủ hay Thiên tướng tọa thủ, ưa nhất là cung
hạn Tử vi độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ.
Tử vi độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ ưa
có Lộc tồn đồng độ. Có điều, khi Tử vi “tại dã cô quân” thì phần nhiều chủ về ích kỷ, rất hay
nghi kỵ. Đến niên hạn có các sao Sát Kị Hình đồng thời hội chiếu,
phần nhiều chủ về hay oán trách, thị phi, thường còn gây nên tự họa
kiện tụng.
Phàm là Tử vi tọa mệnh đều không ưa
đi đến cung hạn Thiên Cơ hay Thiên Lương tọa thủ, có Cự môn đồng độ,
gặp Hóa Kị thì càng thêm tệ. Tử vi độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, gặp
cung hạn Thiên Cơ chủ về phá tán thất bại; gặp cung hạn Thiên Lương
chủ về tai ách tật bệnh, nhưng tai ách chỉ gặp một phen mất hồn hú
vía; gặp cung hạn Cự Môn chủ về gặp rắc rối khó sử về tình cảm tâm
oán tình cô, có cát hóa thì giải
quyết được, gặp các sao Sát Hình thì ứng nghiệm.
Tử vi và Phá quân tọa mệnh, tối kỵ
gặp cách “tại dã cô quân”, đến
cung hạn Thiên Cơ, Thiên Lương hay Cự Môn, thường là vận trình then chốt
của cuộc đời. Nếu cung hạn gặp các sao Sát Kị Hình hội chiếu, chủ
về sẽ xảy ra sự cố, thường ảnh hưởng đến cả cuộc đời. Cũng không
nên đến cung hạn Thái Dương Hóa Kị, thường dẫn đến thị phi oán trách. Hệ
“Tử vi Phá quân” tọa mệnh, có Vũ Khúc Hóa Kị ở nguyên cục, đến đại
hạn “Vũ khúc Thất sát” đồng độ, lại đến lưu niên Thái Dương Hóa Kị
hoặc Cự Môn Hóa Kị, chủ về vì tiền mà chuốc họa. Hệ “Tử vi Phá quân”
tọa mệnh không ưa đến cung hạn Thiên Phủ là “kho trống”, “kho lộ”, chủ
về phá tài. Nếu Thiên Phủ có sao Lộc, thì chỉ chủ về vì tiền mà
mất nghĩa.
Hệ “Tử vi Phá quân” đến niên hạn “Thiên
Đồng Thiên Lương” tọa thủ, gặp Thiên cơ Hóa Kị kèm theo sát tinh đến
xung, chủ về xử sự phải hết sức thận trọng, cơ tâm mưu mẹo càng
nhiều thì phá tán, thất bại càng lớn.
Hệ “Tử vi Thiên phủ” tọa mệnh, rất ưa
gặp sao Lộc, có Lộc Tồn đồng độ, Liêm Trinh Hóa Lộc đến hội, chủ
về cự phú. Lấy trường hợp Hóa Lộc, Lộc tồn của niên hạn làm ứng
nghiệm. Ví dụ Tử Phủ cư Dần, người sinh năm Giáp, đến hạn Đinh Mão
chủ về kiếm được tiền, hoặc gặp cơ hội làm đại lý mà phát đạt.
Hệ “Tử vi Thiên phủ” ưa đến cung hạn Vũ
Khúc độc tọa, gặp lưu Lộc, hoặc Tham Lang Hóa Lộc, hoặc Liêm Trinh
Hóa Lộc, chủ về kiếm được tiền. Nếu lại có các sao Phụ diệu cát
và Tá diệu cát, không có các sao Sát Kị Hình hội chiếu, nguyên cục
là “Tử vi Thiên phủ” lại có kết cấu cát lợi, chủ về tay trắng làm
nên mà thành cự phú.
Hệ “Tử vi Thiên phủ” không có sao Lộc,
đến niên hạn gặp sao Lộc cũng cát lợi.
Hệ “Tử vi Thiên phủ” có sao Lộc, đến
niên hạn Thái Dương độc tọa ở Tị, gặp các sao Phụ diệu cái và Tá
diệu cát, chủ về địa vị thăng tiến, trường hợp Thái Dương ở Hợi là
tốt kế đó.
Đối với người “Tử vi Thiên phủ” tọa
mệnh, mà đại vận tính thep chiều nghịch, thì đại hạn Thái Dương giữ
cung, hoặc Vũ Khúc giữ cung, là then chốt của mệnh vận cả đời. Đại
vận đi thuận, thì đại hạn Tham Lang (Vũ Khúc ở cung đối diện), hoặc
đại hạn Cự Môn (Thái Dương ở cung đối diện), là then chốt của mệnh
vận cả đời. Các đại hạn này cát hay hung, có ảnh hưởng rất lớn
đến cuộc đời.
Hệ “Tử Vi Tham Lang” tọa mệnh, ưa gặp
Hỏa tinh, Linh tinh, cũng ưa gặp Tham Lang Hóa Lộc, chủ về phát lên
một cách đột ngột, mà còn kéo dài. Nếu Tham Lang Hóa Kị, thì cuộc
đời gặp nhiều vất vả khổ lụy, mà còn không được như ý. Nếu Sát
tinh lại nặng, thường thường lúc sắp thành công thì đột nhiên thất
bại.
Nữ mệnh gặp hệ “Tử Vi Tham Lang” không
ưa đến niên hạn Thái Dương tọa cung Phu của niên vận, chủ về gặp kẻ
bất lương. Nam mệnh “Tử vi Tham Lang” không ưa đến niên vận cung Thê là
Thiên Đồng (hoặc Cự Môn) tọa thủ, chủ về rơi vào lưới tình, khó mà
thoát ra.
Hệ “Tử Vi Tham Lang” tọa mệnh đến cung hạn “Vũ
Khúc Phá Quân” mà Vũ Khúc Hóa Kị, lại gặp lưu niên Văn Xương Hóa Kị,
hay Văn Khúc Hóa Kị, chủ về xảy ra phá tán thất bại.
Hệ “Tử Vi Tham Lang” tọa mệnh tại Mão,
đến đại vận hoặc lưu niên ở Ngọ, nếu Thiên Lương Hóa Lộc, chủ về
tham tiền hiếu sắc, đều gây ra phiền phức, gặp thêm Sát tinh thì có
hung họa, nhưng cuối cùng hóa giải được.
Hệ “Tử Vi Tham Lang” tọa mệnh, cung hạn “Thái
Dương Cự Môn” tương hội và cung hạn “Thiên Cơ Thái Âm” đồng cung, là
then chốt của mệnh vận cả đời.
Hệ “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, gặp
lưu niên Sát Phá Tham, đều chủ về có biến động thay đổi, biến động
thay đổi là cát hay hung, phải xem xét tính chất của các tổ hợp sao
để định.
Hệ “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, đến
đại vận “Tử vi Thiên Tương” thủ cung Tật Ách, phải đề phòng bệnh tim
mạch.
Hệ “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, đến
đại vận “Tử Vi Thiên Tướng” thủ cung Phu Thê, phải đề phòng hôn nhân
đổ vỡ.
Hệ “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, đến
đại vận “Vũ Khúc Thiên Phủ” nếu Vũ Khúc Hóa Kị, hoặc Thiên Phủ là
“kho lộ”, “kho trống”, chủ về gặp tình huống tráo trở, điên đảo, mà
gây nên phá tán thất bại (như thất nghiệp, ngừng kinh doanh, vỡ nợ,
sập tiệm, …).
Hệ “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, lại
đến lưu niên “Tử Vi Thiên Tướng” trong các tình huống thông thường,
không nên hợp tác với người khác, năm kế tiếp nếu có hợp tác thì
cũng không thể lâu dài.
Hệ “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, không
ưa gặp cung hạn Tham Lang Hóa Kị. Gặp nó ở bất cứ cung viên nào,
cũng chủ về ứng nghiệm xấu ở cung đó. Ví dụ như đến đại vận hoặc
lưu niên Tham Lang Hóa Kị thủ cung Phụ mẫu, chủ về người cấp trên
trọng dụng mệnh tạo lại bị hoán chuyển công tác, đến lưu niên gặp
Tham Lang Hóa Kị thủ cung Phu thê, chủ về xảy ra sự thay đổi trong
tình cảm.
Đối với người “Tử Vi Thiên Tướng”
tọa mệnh, mà đại vận tính theo chiều nghịch, thì các đại vận Tham
Lang, Vũ Khúc, Thiên Phủ thủ cung hạn là những vận hạn then chốt của
mệnh vận cả đời. Đối với người “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, mà
đại vận tính theo chiều thuận, thì các đại vận Thất Sát, Liêm Trinh
thủ cung hạn là những vận hạn có tính then chốt của mệnh vận cả
đời.
Hệ “Tử Vi Thất Sát” tọa mệnh, mà Tử
Vi Hóa Quyền, thì “tài khí”
trong đời không đủ để giúp cho sự nghiệp.
Hệ “Tử Vi Thất Sát” tọa mệnh, chủ về
nặng tinh thần trách nhiệm. Người sinh năm Quý, cung Sự nghiệp là hệ “Liêm
Trinh Phá Quân” mà Phá Quân Hóa Lộc, lại chủ về gánh vác trách
nhiệm quá mức, việc gì cũng đích thân làm.
Hệ “Tử Vi Thất Sát” tọa mệnh, cung độ “Thái
Dương Cự Môn” có tính then chốt, Thái Dương ở Dần thì tốt hơn ở Thân,
nhưng vẫn phải xem các sao cát hung ra sao mà định.
Nữ mệnh “Tử vi Thất Sát”, hôn nhân
phần nhiều không như ý. Nếu cung Mệnh và cung Phu gặp Sát tinh, nếu
không khéo khắc chế, thì tình cảm rất dễ thay đổi.
Hệ “Tử Vi Thất Sát” tọa mệnh, đại hạn
Thiên Tướng, đại hạn đến hệ “Vũ Khúc Tham lang” thủ cung hạn, là có tính then
chốt của mệnh vận cả đời.
------------------------
Trả lờiXóaQuan Phúc có thể giải Hỏa Linh nhưng đầu hàng Không Kiếp.
Quang Quý có thể giải Không Kiếp nhưng lại chết khiếp Hỏa Linh.
Khôi Việt thiện dụng Không Kiếp và Khôi Việt cũng chết khiếp Hỏa Linh.
Sao Bạch Hổ tối kỵ Hỏa Linh, cho nên Thiên Phúc mới có thể hóa giải Bạch Hổ.
Cung thê mình có thiên việt địa kiếp,chẳng biết thế nào??
Trả lờiXóa